Nhãn hiệu  hàng hóa đóng vai trò quan trọng đối với sự thành công của một doanh  nghiệp, vì vậy, góp vốn bằng giá trị sử dụng nhãn hiệu là một giải pháp  hiệu quả giúp các doanh nghiệp mới đến với thành công nhanh hơn. Tuy  nhiên hiện nay chưa có quy định rõ ràng về định giá nhãn hiệu và đặc  biệt là về việc góp vốn bằng nhãn hiệu hàng hóa. Luật Doanh nghiệp đã  cho phép chủ sở hữu được phép góp vốn bằng quyền sở hữu trí tuệ nhưng  nhiều điều luật quy định khác còn khiến doanh nghiệp lúng túng. Do đó mà  hình thức góp vốn này tại nước ta chưa được thực hiện nhiều và không  theo đúng quy định.
         Những tồn tại 
         Để tạo ra  được một nhãn hiệu hàng hóa mà đặc biệt là những nhãn hiệu hàng hóa nổi  tiếng cần thời gian và chi phí đầu tư. Nhãn hiệu hàng hóa khi đã được  thị trường thừa nhận thường lớn hơn chi phí tạo ra nó nhiều lần. Tuy  nhiên, cũng không ít trường hợp nhãn hiệu hàng hóa bị mất giá vì gắn mới  một doanh nghiệp (DN) kinh doanh kém hiệu quả. Do đó, đầu tư cho nhãn  hiệu hàng hóa của doanh nghiệp tốn nhiều công sức mà không tránh khỏi  rủi ro xảy ra, vì vậy, nhiều DN chọn cách góp vốn bằng thương hiệu. Ở  Việt Nam hiện nay, do chưa có văn bản nào quy định riêng về việc góp vốn  bằng nhãn hiệu hàng hóa nên việc góp vốn thường được lập hợp đồng như  các loại hợp đồng góp vốn thông thường. Các bên sẽ xác định giá trị nhãn  hiệu hàng hóa theo thỏa thuận và theo đó lập hợp đồng góp vốn, trong đó  quy định rõ tỷ lệ góp vốn là bao nhiêu và nghĩa vụ, quyền lợi các bên  như các loại hợp đồng thương mại thông thường. Khó khăn xảy ra là việc  các doanh nghiệp thực hiện góp bằng nhãn hiệu hàng hóa, vốn chưa được  định giá, song lại ghi trong giấy đăng ký kinh doanh là “góp vốn bằng  tiền”. Và chính “hành động góp vốn bằng tiền nhưng lại không có tiền”  này sẽ gây rắc rối cho hệ thống kế toán; đồng thời, gây ra rất nhiều  vướng mắc nếu DN góp vốn muốn rút vốn, hay DN nhận vốn góp không muốn  tiếp tục hợp tác.
         Thêm một vấn  đề nữa, hiện nay việc một số tổng công ty với nhãn hiệu hàng hóa nổi  tiếng mang tên đi góp vốn với nhiều đối tác trong nhiều lĩnh vực không  được đánh giá cao. Một nhãn hiệu hàng hóa đem góp vốn vào nhiều doanh  nghiệp khác nhau có thể bị pha loãng giá trị. Ngược lại, có thể xảy ra  trường hợp bên nhận góp vốn lạm dụng thương hiệu, làm giảm giá trị  thương hiệu. Ngoài ra, vì là một phần quan trọng được pháp luật sở hữu  trí tuệ bảo vệ nên khi muốn đăng ký góp vốn bằng nhãn hiệu, các doanh  nghiệp phải đảm bảo các điều kiện về việc xác định giá trị nhãn hiệu.  Chẳng hạn như, nhãn hiệu hàng hóa phải đảm bảo yếu tố giới hạn về không  gian và thời gian,… song, trên thực tế nhiều DN chưa đáp ứng đầy đủ các  điều kiện này nhưng họ vẫn thực hiện các thủ tục góp vốn bằng nhãn hiệu  hàng hóa và có thể gặp rắc rối, rủi ro. 
         Hy vọng một khung pháp lý toàn diện
         Ở các nước  phát triển, nhãn hiệu hàng hóa đã được coi là một tài sản có giá trị lớn  của DN, việc góp vốn liên doanh, liên kết, chuyển nhượng nhãn hiệu hàng  hóa ... đã được thực hiện một cách phổ biến. Tại Việt Nam, mặc dù các  quy định pháp luật về góp vốn bằng nhãn hiệu hàng hóa chưa đầy đủ và rõ  ràng, nhu cầu của các doanh nghiệp là có thực và ngày càng tăng, nên  chúng ta cần xây dựng được hành lang pháp lý đầy đủ. Luật sư Phạm  Thành Long, Trưởng văn phòng Luật Gia Phạm cho biết, chúng ta cần những  văn bản hướng dẫn chi tiết cho việc góp vốn bằng nhãn hiệu hàng hóa nhằm  tránh việc trục lợi và tạo nên được một hành lang pháp lý thuận lợi  hơn, mà đầu tiên là phải có những căn cứ để đánh giá giá trị của nhãn  hiệu. Thêm vào đó, cần có một Thông tư hướng dẫn về phương pháp xác định  giá trị tài sản vô hình nói chung, thương hiệu nói riêng và áp dụng cho  các DN thuộc mọi thành phần kinh tế. Để làm được điều này khó khăn lớn  nhất nằm ở việc định giá thương hiệu, đây là câu hỏi vẫn chưa tìm ra  được câu trả lời do đó cần sự cố gắng từ nhiều phía.
         Cùng chung  quan điểm đó, ông Lê Hải Đoàn, Phó Tổng giám đốc Công ty kiểm toán quốc  tế Unistars cho rằng, Luật Doanh nghiệp ghi rõ là được phép góp vốn bằng  tài sản mang tính chất là sở hữu trí tuệ, do vậy pháp luật thừa nhận  điều này nên chúng ta cần có hành lang pháp lý, hay những tổ chức định  giá công minh để DN có thể hạch toán được tài sản và được công nhận. 
         Vướng mắc  trong chuẩn mực kế toán số 4 của Bộ Tài Chính là khó khăn mà rất nhiều  DN mong mỏi được giải quyết. Theo đó, cần ban hành một văn bản quy phạm  pháp luật thừa nhận thương hiệu là một tài sản vô hình của DN và hướng  dẫn cách xác định giá trị thương hiệu để họ ghi nhận giá trị thương hiệu  vào bảng cân đối kế toán của mình. Đó là cơ sở pháp lý để góp vốn liên  doanh, liên kết, hợp tác kinh doanh, nhượng quyền thương mại... bằng giá  trị thương hiệu. 
         Nắm được vấn  đề này, vừa qua, Bộ Tài chính đã hoàn thành và lấy ý kiến dự thảo thông  tư hướng dẫn việc góp vốn và nhận góp vốn bằng giá trị quyền sử dụng  nhãn hiệu. Nếu được ban hành thì thông tư này sẽ tháo gỡ được vướng mắc  về chế độ kế toán trong việc xác định tài sản cố định vô hình (nhãn hiệu  hàng hóa) và thúc đẩy sự ra đời của nhiều doanh nghiệp mới. Bản dự thảo  này của Bộ Tài chính là một bước tiến cho thấy nhu cầu của nhiều DN đã  được ghi nhận và đáp ứng./.
         TBTCVN số 139-(Theo Website Bộ tài chính)
     
No comments:
Post a Comment