Thursday 31 March 2011

Từ 1/4, xi măng tăng 150.000 đồng/tấn

Nhiều thương hiệu xi măng tăng giá thêm 150.000 đồng/tấn, bắt đầu áp dụng từ ngày 1/4.

Cụ thể, giá xi măng giao tại nhà máy của Hà Tiên 1 giữ mức 1,56 triệu đồng/tấn, Nghi Sơn khoảng 1,57 triệu đồng/tấn, Fico khoảng 1,5 triệu đồng/tấn... Hà Tiên 1 tăng giá bán xi măng rời chưa đóng bao thêm 120.000 đồng/tấn, giá bán giao tại nhà máy cho loại xi măng này ở mức 1,48 triệu đồng/tấn.

Giá xi măng bán lẻ ngoài thị trường tự do cũng đã tăng 83.000-85.000 đồng/bao.

Việc lấy hàng từ các đại lý cấp 1 mấy ngày qua gặp nhiều khó khăn, có nơi không giao hàng vì muốn chờ giá mới.

Theo TT

Gas tăng thêm 5.000 đồng/bình 12kg

Sáng nay (1/4), giá gas bán lẻ của các công ty kinh doanh gas như: Petrolimex gas, Saigon Petro gas, Vinagas, Gia Đình gas… đồng loạt điều chỉnh tăng thêm 5.000 đồng so với mức hiện hành. Với mức tăng này, giá bán lẻ đến tay người tiêu dùng ở mức 348.000 đồng/bình 12kg.

Theo lý giải của các công ty gas, lý do khiến giá gas trong nước tăng thêm 50.000 đồng là bởi giá gas thế giới tháng 4/2011 tăng mạnh so với tháng 3/2011. Hiện, giá gas CP thế giới trong tháng 4 ở mức 882,5 USD/tấn, tăng 42,5 USD/tấn so với tháng 3.

Trước đó, ngày 26/3, giá gas đã tăng 14.000 đồng/bình 12kg cho những lô hàng nhập đột xuất (bị áp giá tháng 4).

Như vậy, tính hết quý I/2011, giá gas trong nước đã được các công ty kinh doanh gas điều chỉnh giá đến 6 lần, với 5 lần tăng giá và 1 lần giảm giá. Hiện giá gas tháng 4/2011 đã tăng cao hơn giá gas tháng 1/2011 là 23.000 đồng/bình 12kg.

(Theo DDDN)

Giãn thuế một năm cho doanh nghiệp nhỏ

Xem hình

Chính phủ hôm qua đã đồng ý gia hạn nộp thuế thu nhập cho các doanh nghiệp nhỏ, vừa và siêu nhỏ trong vòng một năm, theo đề nghị của Bộ Tài chính.

Theo đó, số thuế được gia hạn nộp là thuế thu nhập doanh nghiệp tạm tính hằng quý và số thuế quyết toán cả năm 2011, bao gồm cả số thuế thu nhập doanh nghiệp năm 2010 chuyển sang.

Cụ thể, số thuế tính tạm nộp quý I/2011 được gia hạn nộp thuế chậm nhất đến ngày 30/4/2012. Số thuế quý II/2011 được gia hạn nộp thuế chậm nhất 30/7/2012. Quý III được gia hạn chậm nhất 30/10/2012. Còn quý IV gia hạn chậm nhất 31/3/2013.

Hiện nay, doanh nghiệp được coi là vừa và nhỏ là những đơn vị sản xuất, kinh doanh động lập có vốn đăng ký không quá 10 tỷ đồng hoặc số lao động trung bình hàng năm không quá 300 người. Doanh nghiệp có số nhân lực dưới 10 người gọi là siêu nhỏ. Còn doanh nghiệp có từ 10 đến 49 nhân công được coi là doanh nghiệp nhỏ.

Đối với các doanh nghiệp hoạt động theo nhiều ngành nghề, nhiều lĩnh vực thì số thuế được giãn nộp, không bao gồm số thuế tính trên phần thu từ hoạt động kinh doanh bất động sản, tài chính, ngân hàng, bảo hiểm, chứng khoán. Ngoài ra, phần thu từ hoạt động kinh doanh các mặt hàng nhập khẩu không thuộc diện hàng tiêu dùng không thiết yếu cũng không giãn thuế.

Theo ước tính của Bộ Tài chính, số tiền dành cho đợt giãn thuế này vào khoảng 7.000 tỷ đồng. Số đơn vị nằm trong diện có thể được giãn thuế vào khoảng 200.000 trên tổng số 360.000 doanh nghiệp nhỏ và vừa đang hoạt động tại Việt Nam.

Hồi năm 2009 đối phó với lạm phát, khủng hoảng, Chính phủ cũng thực hiện việc giãn thuế thu nhập doanh nghiệp cho một số ngành hàng, dịch vụ. Tổng số thuế ước giãn cho cả đợt vào khoảng 10.000 tỷ đồng.

(Theo vnexpress.net)

Nguồn: www.kiemtoan.com.vn

Cổ phiếu thưởng: Bản chất và phương pháp hạch toán

Cổ phiếu thưởng:

Bản chất và phương pháp hạch toán

Hiện tại các Công ty cổ phần đang quyết định chia cổ tức, trong đó có việc chia cổ tức bằng cổ phiếu và thưởng bằng cổ phiếu. Bài viết này giúp độc giả thấy rõ bản chất của việc chia cổ tức bằng cổ phiếu và đưa ra hướng xử lý kế toán đối với các bên liên quan

Phan Long, CPA
Monash University, Australia

Bản chất của cổ phiếu thưởng

Cổ phiếu được chia theo cổ tức thường được gọi là cổ phiếu thưởng. Cổ phiếu thưởng không được coi là cổ tức thực sự bởi vì cổ tức này không được thanh toán bằng tiền. Việc chia cổ tức bằng cổ phiếu chỉ làm tăng đến số lượng cổ phiếu lưu hành mà các cổ đông nắm giữ. Chính vì thế, về bản chất, nó làm giảm giá trị của mỗi cổ phiếu sau khi chia.

Thông thường cổ phiếu thưởng được chia theo một tỷ lệ nhất định. Ví dụ: Đại hội đồng cổ đông Công ty Cổ phần TT nhất trí chia toàn bộ cổ tức bằng cổ phiếu theo tỷ lệ 5:1. Điều đó có nghĩa là cổ đông nắm giữ 05 cổ phiếu cũ sẽ được “thưởng” 01 cổ phiếu mới phát hành, và tổng số cổ phiếu lưu hành sẽ tăng lên 20%. Khi đó chúng ta có thể thấy kết quả của việc chia cổ tức bằng cổ phiếu có thể dẫn đến giá trị của mỗi cổ phiếu giảm 20% do tổng giá trị vốn chủ sở hữu không thay đổi.

Xử lý kế toán

Cổ phiếu thưởng làm tăng số lượng cố phiếu lưu hành và làm giảm giá trị của mỗi cổ phiếu. Tuy nhiên, xử lý kế toán lại không giống nhau trong mọi trường hợp, và phụ thuộc vào yếu tố giá trị của cổ phiếu thưởng, có nghĩa là tỷ lệ chia. Theo thông lệ, khi tỷ lệ cổ phiếu thưởng nhỏ vào khoảng 20% - 25% được gọi là phát hành cổ phiếu thưởng nhỏ. Xử lý kế toán trong trường hợp này sẽ được minh hoạ bởi ví dụ dưới đây. Những trường hợp tỷ lệ cổ phiếu thưởng lớn hơn 25% được gọi là phát hành cổ phiếu thưởng lớn, và trường hợp này ít xảy ra. Một ví dụ điển hình của phát hành cổ phiếu thưởng lớn là vào 1973, hãng Walt Diney công bố tỷ lệ cổ phiếu thưởng 100%, có nghĩa là cứ 01 cổ phiếu nắm giữ sẽ được nhận thêm 01 cổ phiếu mới và như thế số lượng cổ phiếu lưu hành tăng lên gấp đôi. Điều đó dẫn đến giá trị cổ phiếu bị “loãng”, làm cho giá thị trường của cổ phiếu bị sụt giảm lớn.

Ví dụ minh hoạ trường hợp phát hành cổ phiếu thưởng nhỏ:

Công ty ABC có 100.000 cổ phiếu lưu hành với mệnh giá $1,00 và với giá thị trường là 6,60$. Như vậy tổng giá trị thị trường của ABC là 100.000 x $6,60 = $660.000.

Báo cáo tài chính ngày 31/12/XX của ABC có số liệu như sau:

- Vốn cổ phần thường lưu hành (100.000 cổ phiếu) $100.000

- Lợi nhuận chưa phân phối $200.000

Tổng vốn chủ sở hữu $300.000

Đại hội đồng cổ đông của ABC quyết định chia toàn bộ lợi nhuận bằng cổ phiếu theo tỷ lệ 10:1. Có nghĩa là sẽ phát hành 10.000 cổ phiếu mới. Sau khi chia, ABC sẽ có tổng cộng 110.000 cổ phiếu lưu hành.
Giá trị cổ phiếu mới phát hành là: $200.000 : 10.000 = $20

Giá trị cổ phiếu mới phát hành theo mệnh giá là: $1,00 x 10.000 = $10.000

Chênh lệch giữa giá trị cổ phiếu theo giá phát hành và theo mệnh giá = $200.000 - $10.000 = $190.000

Sau khi chia cổ phiếu thưởng Báo cáo tài chính của ABC có số liệu như sau:

- Vốn cổ phần thường lưu hành (110.000 cổ phiếu) $100.000 + $10.000 = $110.000

- Thặng dư vốn $190.000

Tổng vốn chủ sở hữu $300.000

Theo như ví dụ trên thì giá trị cổ phiếu mà cổ đông nắm giữ sau khi được chia sẽ không thay đổi so với trước khi được chia (đều bằng $300.000). Trường hợp này đã ngoại trừ các yếu tố tác động đến giá trị của cổ phiếu trên thị trường như cung - cầu, kỳ vọng của nhà đầu tư,… mà chỉ tập trung đến tác động của việc chia cổ phiếu thưởng.

Tác động đến giá trị thị trường của cổ phiếu

Theo suy luận logic thông thường, cổ phiếu thưởng có thế:

(1) không làm ảnh hưởng đến giá trị của công ty

(2) làm tăng giá trị của công ty

(3) làm giảm giá trị của công ty

Quan niệm chuẩn về cổ phiếu thưởng là nó không làm thay đổi giá trị tài sản của nhà đầu tư cũng như của doanh nghiệp. Theo ví dụ trên, giá trị thị trường của ABC là $660.000. Sau khi chia cổ phiếu thưởng, số cổ phiếu lưu hành là 110.000 cổ phiếu, và mỗi cổ phiếu có thế có giá trị là $660.000 : 110.000 = $6,00.

Trường hợp một cổ đông năm giữ 1000 cổ phiếu trước khi chia, có giá $6.600. Sau khi chia cổ phiếu thưởng, cổ đông đó có 1.100 cổ phiếu và tổng giá trị của nó có thể sẽ là 1.100 x $6,00 = $6.600. Như vậy, cổ phiếu thưởng, thực chất, không có ảnh hưởng về mặt kinh tế. Và trên lý thuyết, việc xác định tỷ lệ chia càng cao thì giá trị cổ phiếu càng giảm và sẽ ảnh hưởng đến giá trị thị trường của số cổ phiếu ban đầu mà cổ đông nắm giữ.

Tuy nhiên, thực tế thị trường lại có khác biệt rất lớn. Việc chia cổ phiếu thưởng sẽ tác động đến tâm lý được mua “rẻ” của số đông nhà đầu tư, dẫn đến các nhà đầu tư tìm cách mua cổ phiếu trước khi chia cổ phiếu thưởng đã làm cho cầu về cổ phiếu tăng cao. Hơn nữa, việc chia cổ tức bằng cổ phiếu được các nhà đầu tư Việt Nam "diễn giải" là doanh nghiệp giữ lại lợi nhuận đạt được để tái đầu tư, cũng khiến cho kỳ vọng của nhà đầu tư về sự phát triển của doanh nghiệp trong tương lai. Các yếu tố này góp phần đẩy giá của cổ phiếu lên cao. Điều này đặc biệt đúng trong điều kiện Việt Nam hiện nay, nơi các nhà đầu tư đầu tư theo phong trào và “mách nước” nhiều hơn là có sự phân tích kỹ càng nhiều yếu tố, và đặc biệt đúng trong ngắn hạn. Tuy nhiên, về lâu dài việc phát hành cổ phiếu thưởng tràn lan có thể dẫn tới làm giảm giá thị trường của cổ phiếu.

(Theo www.vacpa.org.vn)

Wednesday 30 March 2011

VNA: Lợi nhuận sau kiểm toán giảm 9%, kiểm toán nghi ngờ khả năng hoạt động liên tục

Ban giám đốc công ty cho biết, để bù đắp thiếu hụt nguồn vốn lưu động, Ban giám đốc công ty cũng có kế hoạch thanh lý một số tài sản cố định khai thác không hiệu quả.

Công ty Cổ phần Vận tải Biển Vinaship (VNA) thông báo kết quả kinh doanh 2010 sau kiểm toán.

Lợi nhuận sau thuế năm 2010 sau kiểm toán của công ty đạt 40,57 tỷ đồng, giảm 4 tỷ đồng tương đương mức giảm 9% so với mức 44,58 tỷ đồng công bố trước đó.

Đáng chú ý là đơn vị kiểm toán Deloitte Việt Nam có lưu ý người đọc bào cáo về khoản nợ ngắn hạn của VNA. Tại thời điểm 31/12/2010, nợ ngắn hạn của công ty vượt quá tài sản ngắn hạn là 184,29 tỷ đồng (năm 2009 là 175,5 tỷ đồng). Việc thiếu hụt vốn lưu động này có thể ảnh hưởng đến khả năng hoath động liên tục của công ty trong tương lai.

Liên quan đến vấn đề kiểm toán đã lưu ý trên đây, Ban giám đốc công ty cho biết, để bù đắp thiếu hụt nguồn vốn lưu động, Ban giám đốc công ty cũng có kế hoạch thanh lý một số tài sản cố định khai thác không hiệu quả. Đồng thời, ban giám đốc đưa ra các giải pháp nhằm duy trì thị trường truyền thống và tìm kiếm thị trường mới nhằm tăng doanh thu, giảm chi phí và tin tưởng vào kết quả kinh doanh khả quan trong năm 2011. Hiện nay, công ty cũng đang hoàn tất thủ tục để tăng vốn điều lệ lên 300 tỷ đồng. Theo đó, ban giám đốc công ty tin tưởng rằng báo cáo tài chính được thiết lập trên giả thiết công ty hoạt động liên tục là phù hợp.

Minh Thành
Theo VNA

Hỗ trợ 5 nhóm đối tượng có thu nhập thấp từ 100.000 – 250.000 đồng/người

Theo Quyết định, các doanh nghiệp nhà nước thực hiện trợ cấp khó khăn cho các lao động từ các Quỹ tài chính hợp pháp của doanh nghiệp.

Hôm nay (30/3), Thủ tướng Chính phủ ban hành quyết định trợ cấp khó khăn đối với cán bộ, công chức, viên chức, lực lượng vũ trang, người hưởng lương hưu có mức lương thấp, người hưởng trợ cấp ưu đãi người có công và hộ nghèo đời sống khó khăn.

Theo Quyết định 471/QĐ-TTg có hiệu lực từ 30/3/2011, 5 nhóm đối tượng được hưởng trợ cấp với các mức 100.000 đồng/người và 250.000 đồng/người. Cụ thể:

Theo Quyết định, các doanh nghiệp nhà nước thực hiện trợ cấp khó khăn cho các lao động từ các Quỹ tài chính hợp pháp của doanh nghiệp.

Quyết định nêu rõ, khuyến khích các doanh nghiệp ngoài khu vực nhà nước được sử dụng các quỹ tài chính hợp pháp hỗ trợ để cho người lao động có thêm điều kiện cải thiện cuộc sống.

Các doanh nghiệp hỗ trợ cho người lao động mà nguồn từ các quỹ hợp pháp không đủ chi thì được hạch toán vào chi phí sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.

Theo Đức Nguyễn

Chinhphu.vn

Báo cáo kiểm toán: ‘Shock’ với những con số giảm trên 20%

Xem hình

TLH mở màn cho hoang mang của nhiều nhà đầu tư với việc công bố Lợi nhuận ròng sau kiểm toán giảm gần 30%.

Mùa công bố báo cáo kiểm toán năm nay, nhà đầu tư lại liên tiếp nhận được những thông tin ‘giật gân’ khi doanh nghiệp họ đang ‘hùn vốn’ công bố những con số khác với những gì họ nắm bắt trước đó.

Những câu chuyện cũ

Kết quả kiểm toán năm 2009 gây không ít bất ngờ cho nhà đầu tư khi VCG báo cáo lợi nhuận trước thuế sau kiểm toán đột ngột ‘rơi’ 429,45 tỷ đồng từ mức 620,86 tỷ đồng trước đó. ‘Lịch sử’ lặp lại ở Báo cáo soát xét 6 tháng 2010 khi công ty công bố báo cáo soát xét với mức giảm 2,8 tỷ đồng lợi nhuận ròng và lưu ý của đơ vị kiểm toán về khoản doanh thu tài chính từ chênh lệch tỷ giá 76,76 tỷ đồng.

Ngoài VCG, HVG cũng là doanh nghiệp có số liệu kiểm toán chênh lệch so với con số công bố trước đó trong 2 kỳ kiểm toán và soát xét liên tiếp. LNST năm 2009 của HVG giảm 67,9 tỷ (-18,7%) so với số trước kiểm toán, từ 362,81 tỷ xuống 294,9 tỷ đồng và LN ròng 6 tháng sau soát xét đạt 135,68 tỷ đồng, tăng 45,6% so với công bố trước đó.

VTO, VIP: Trích lập dự phòng đã hợp lý?

Liên quan đến việc VIP không thực hiện trích lập dự phòng về khoản mục đầu tư vào cổ phiếu CTCP An Phú trên OTC, Công ty kiểm toán A&C có ý kiến ngoại trừ do không có cơ sở đáng tin về giá cổ phiếu này trên thị trường để xác định mức trích lập.

Trái ngược với việc không trích lập của VIP, khoản đầu tư vào CTCP An Phú trên OTC của VTO được công ty thực hiện trích lập dự phòng ở mức 86,54% giá trị đầu tư với tổng giá trị dự phòng là 46,63 tỷ đồng trên tổng vốn đầu tư là 53,5 tỷ đồng. Đơn vị kiểm toán Deloitte cũng đưa ra ý kiến ngoại trừ do không xác định được giá cổ phiếu An Phú.

OGC, REE: Phương pháp hạch toán

Phương pháp hạch toán cổ tức bằng cổ phiếu của REE năm 2009 đã gây ra không ít tranh cãi. Năm nay, vấn đề này lại được ‘xới’ lên khi đơn vị kiểm toán có ý kiến nếu phương pháp hạch toán của công ty đúng thì lợi nhuận năm 2010 tăng 31,32 tỷ đồng và lợi nhuận năm 2009 giảm tương ứng. Cho đến nay REE vẫn chưa có phản hồi nào liên quan đến việc hạch toán này.

Cũng liên quan đến phương pháp ghi nhận doanh thu, lợi nhuận, Deloitte Việt Nam có lưu ý đến việc OGC đã ghi nhận doanh thu, giá vốn chuyển nhượng bất động sản phát sinh từ các hợp đồng góp vốn đầu tư và chia sẻ sản phẩm bất động sản với các nhà đầu tư khác vào báo cáo tài chính năm kết thúc ngày 31/12/2010. Tại ngày lập báo cáo này, các hợp đồng trên vẫn đang được thực hiện và chưa chuyển sang hình thức mua bán bất động sản theo các quy định hiện hành (Nghị định 71).

‘Shock’ với những con số giảm 20%

TLH mở màn cho hoang mang của nhiều nhà đầu tư với việc công bố Lợi nhuận ròng sau kiểm toán giảm gần 30%. So với kết quả trước kiểm toán, chi phí tài chính của TLH tăng thêm 30,3 tỷ đồng do phải trích thêm dự phòng giảm giá đầu tư chứng khoán dẫn đến LNTT giảm một lượng tương ứng.

TAC bị đơn vị Kiểm toán lưu ý về 20,75 tỷ đồng miễn giảm thuế TNDN do chưa có cơ sở chắc chắn về sự miễn giảm này. Nếu không được miễn giảm, LNST năm 2010 của TAC giảm tương ứng với mức giảm là 23,67%.

(Theo stox.vn)

Nguồn: Kiemtoan.com.vn

Tuesday 29 March 2011

10 thương hiệu đắt giá nhất hành tinh

Thương hiệu Apple từ bậc 20 năm ngoái vọt lên vị trí số 8 của năm nay.

Hãng nghiên cứu tài chính BrandFinance mới đây đã công bố bảng xếp hạng 500 thương hiệu giá trị nhất trên thế giới. Trong đó, thương hiệu Google từ vị trí thứ hai năm ngoái vượt lên dẫn đầu, với giá trị đạt hơn 44,29 tỷ USD, tăng 8,1 tỷ so với mức xếp hạng của năm 2010.

Với kết quả này, "gã tìm kiếm trực tuyến khổng lồ" Google đã vượt qua các đại gia khác như Microsoft hay Apple để trở thành thương hiệu có giá trị nhất thế giới. Theo BrandFinance, thương hiệu của Google được đánh giá cao vì các dịch vụ của hãng được nhiều người sử dụng.

Kết quả xếp hạng giá trị thương hiệu của BrandFinance được công bố dựa trên tình hình tài chính và thu nhập của các công ty. Số liệu mà BrandFinance sử dụng để sắp xếp thứ hạng các thương hiệu của năm 2011 được tính đến hết ngày 31/21/2010.

Đáng chú ý trong xếp hạng năm nay, hãng phần mềm lớn nhất thế giới, Microsoft, từ vị trí thứ 5 của năm ngoái vượt lên thứ hạng 2, với giá trị thương hiệu đạt 42,8 tỷ USD. Hãng bán lẻ Wal-Mart tụt xuống bậc 3 từ hạng 1 của năm ngoái.

Dưới đây là xếp hạng 10 thương hiệu giá trị nhất:

1. Google:


Xếp hạng thương hiệu năm 2010: 2
Giá trị thương hiệu năm 2011: 44,294 tỷ USD
Giá trị thương hiệu năm 2010: 36,191 tỷ USD
Giá trị vốn hóa thị trường năm 2011: 143,016 tỷ USD
Giá trị vốn hóa thị trường năm 2010: 159,970 tỷ USD

2. Microsoft


Xếp hạng thương hiệu năm 2010: 5
Giá trị thương hiệu năm 2011: 42,805 tỷ USD
Giá trị thương hiệu năm 2010: 33,605 tỷ USD
Giá trị vốn hóa thị trường năm 2011: 165,724 tỷ USD
Giá trị vốn hóa thị trường năm 2010: 199,989 tỷ USD

3. Wal-Mart


Xếp hạng thương hiệu năm 2010: 1
Giá trị thương hiệu năm 2011: 36,220 tỷ USD
Giá trị thương hiệu năm 2010: 341,365 tỷ USD
Giá trị vốn hóa thị trường năm 2011: 154,324 tỷ USD
Giá trị vốn hóa thị trường năm 2010: 190,803 tỷ USD

4. IBM


Xếp hạng thương hiệu năm 2010: 4
Giá trị thương hiệu năm 2011: 36,157 tỷ USD
Giá trị thương hiệu năm 2010: 33,706 tỷ USD
Giá trị vốn hóa thị trường năm 2011: 189,717 tỷ USD
Giá trị vốn hóa thị trường năm 2010: 180,027 tỷ USD

5. Vodafone


Xếp hạng thương hiệu năm 2010: 7
Giá trị thương hiệu năm 2011: 30,674 tỷ USD
Giá trị thương hiệu năm 2010: 28,995 tỷ USD
Giá trị vốn hóa thị trường năm 2011: 192,455 tỷ USD
Giá trị vốn hóa thị trường năm 2010: 178,603 tỷ USD

6. Bank of America


Xếp hạng thương hiệu năm 2010: 12
Giá trị thương hiệu năm 2011: 30,619 tỷ USD
Giá trị thương hiệu năm 2010: 26,074 tỷ USD
Giá trị vốn hóa thị trường năm 2011: 120,195 tỷ USD
Giá trị vốn hóa thị trường năm 2010: 111,754 tỷ USD

7. GE


Xếp hạng thương hiệu năm 2010: 6
Giá trị thương hiệu năm 2011: 30,504 tỷ USD
Giá trị thương hiệu năm 2010: 31,909 tỷ USD
Giá trị vốn hóa thị trường năm 2011: 475,066 tỷ USD
Giá trị vốn hóa thị trường năm 2010: 528,712 tỷ USD

8. Apple


Xếp hạng thương hiệu năm 2010: 20
Giá trị thương hiệu năm 2011: 29,543 tỷ USD
Giá trị thương hiệu năm 2010: 19,829 tỷ USD
Giá trị vốn hóa thị trường năm 2011: 244,381 tỷ USD
Giá trị vốn hóa thị trường năm 2010: 156,416 tỷ USD

9. Wells Fargo


Xếp hạng thương hiệu năm 2010: 15
Giá trị thương hiệu năm 2011: 28,944 tỷ USD
Giá trị thương hiệu năm 2010: 21,916 tỷ USD
Giá trị vốn hóa thị trường năm 2011: 136,069 tỷ USD
Giá trị vốn hóa thị trường năm 2010: 131,225 tỷ USD

10. AT&T


Xếp hạng thương hiệu năm 2010: 11
Giá trị thương hiệu năm 2011: 28,884 tỷ USD
Giá trị thương hiệu năm 2010: 26,585 tỷ USD
Giá trị vốn hóa thị trường năm 2011: 235,987 tỷ USD
Giá trị vốn hóa thị trường năm 2010: 229,792 tỷ USD

(Theo VNeconomy)

Đất Đông Anh sôi động vì 'cò'

Cò đất cùng một lúc đóng ba vai (người mua, người bán đồng thời là trung gian dẫn khách), đẩy giá đất huyện phía bắc Hà Nội tăng 40-50%. Giao dịch thành công chưa nhiều song giá đất Đông Anh đang tăng chóng mặt.

Đây là một trong số ít những văn phòng khang trang dọc đường 6 km huyện Đông Anh. Ảnh: Hoàng Lan.

Dọc đường 6 km dẫn đến thị trấn Đông Anh (huyện Đông Anh), khoảng hơn chục văn phòng môi giới cửa đóng then cài. Một vài chiếc xe tải chở nguyên vật liệu thỉnh thoảng đi qua làm bụi mù mịt, đối lập hẳn với không gian yên bình của cánh đồng cỏ xanh mướt bên đường. Đa số các trung tâm môi giới nhà đất ở khu vực này rất tạm bợ, nhiều văn phòng chỉ là chiếc lán dựng lên. Số ít văn phòng còn lại khang trang treo biển rõ ràng thì cửa khóa chặt.

Tại Văn phòng Giới thiệu Mua bán nhà đất ruộng, vườn nằm trên đường 6 km, hai vợ chồng ông Đức vừa làm môi giới vừa mở quán trà bên đường, kiêm thêm nghề sửa chữa xe máy. Đối diện với chiếc may bơm là tấm bản đồ quy hoạch đất Đông Anh treo ngất ngưởng trên tường. Thấy khách lạ bước vào, cả hai vợ chồng đon đả mời chào, người vợ vừa lấy giẻ lau vội chỗ ghế bám đầy bụi mời khách ngồi vừa tất tưởi pha trà.

Theo ông Đức, đất Đông Anh hiện có giá rất cao, nhìn chung dao động khoảng trên dưới 40 triệu đồng một m2, tăng khoảng 10-20 triệu đồng so với năm ngoái. Khu vực thuộc thị trấn Đông Anh khoảng 50-70 triệu đồng mỗi m2 tùy vị trí. Riêng đất thổ cư tại xã Vĩnh Ngọc, gần cầu Nhật Tân, nằm ngay mặt đường 6 km lên tới 80 triệu đồng mỗi m2. Vị môi giới cho hay, muốn mua được đất Vĩnh Ngọc phải có trong tay tầm chục tỷ vì người dân không có nhu cầu cắt nhỏ đất mà thường bán với diện tích rất rộng. Chỉ ra một miếng đất rộng khoảng 300 m2 cạnh nhà có mặt tiền rộng rãi, ông Đức cho biết, miếng đất này được bán với giá 25 tỷ đồng.

“Những miếng đất thổ cư nhỏ tại thôn Phương Trạch, xã Vĩnh Ngọc hiện chẳng có mà bán. Người bán ít, đất đai lại ngày một hiếm nên giá tăng đến chóng mặt”, ông Đức nói.

Nhiều môi giới cho hay, trong suốt hai năm nay, đất Đông Anh liên tục tăng giá. Anh Nguyễn Hoàng, một môi giới cho biết, đất thổ cư trong huyện đang rất khan hiếm. Trong khi nhiều khách lạ khó mua đất thổ cư nhỏ thì anh Hoàng lại là người đưa các "chân rết" tỏa đi mua thu gom đất xen kẹt trong dân. “Sau khi chuyển đổi mục đích, mỗi miếng đất có thể thu lợi hàng trăm triệu đồng”, anh Hoàng tiết lộ.

Bất cứ người dân nào ở khu vực Đông Anh cũng có thể nói rành rọt về giá đất vùng này. Chị Nguyễn Thị Thu, bán ngô trên đường 6 km cho biết, ngày cao điểm, chị có thể bán được khoảng 200-300.000 đồng tiền ngô nhưng vẫn không bằng buôn đất. Nếu có người khách nào dừng chân mua ngô chị đều đon đả mời chào chỗ này chỗ kia có miếng đất đẹp rồi bỏ cả gánh ngô để làm môi giới. Nếu khách chưa ưng ý, chị sẵn sàng ghi số điện thoại để khi tìm được mảnh đất phù hợp sẽ alo.

Theo tìm hiểu của VnExpress.net, thực tế đất một mảnh đất Vĩnh Ngọc cách cầu Nhật Tân khoảng 1 km, mặt tiền 8m, sâu 12 m2 giá chỉ khoảng 25-27 triệu đồng mỗi m2. Trong khi đó, giá chào lên tới 40 triệu đồng, chênh hơn chục triệu so với giá thực tế. Đất Hải Bối, Đông Anh diện tích 100 m2, dài 21 m, mặt tiền 5 m cách cầu Nam Thăng Long 2,5 km, cách cầu nhật Tân 700 m, gần dự án Sông Hồng, ôtô có thể đỗ tận cửa, giá cũng chỉ 23 triệu đồng mỗi m2 nhưng vẫn chưa đẩy được hàng. Trong khi phía trước là cánh đồng ruộng, vào sâu là làng quê thì nhiều khu vực được hét với giá 40-80 triệu đồng, ngang ngửa nhiều khu vực thuộc nội thành.

Đất Hải Bối được xếp vào dạng được nhiều nhà đầu tư quan tâm do gần cầu Nhật Tân. Ảnh: Hoàng Lan
Đất Hải Bối xếp vào dạng được nhiều nhà đầu tư quan tâm do gần cầu Nhật Tân. Ảnh: Hoàng Lan

Anh Nguyễn Phúc Anh, một môi giới chuyên nghiệp tại Đông Anh tiết lộ, thôn Phương Trạch - Vĩnh Ngọc dự kiến trở thành trung tâm tài chính quốc tế nên chuyện cò đất đua nhau làm giá là chuyện “thường tình ở huyện”. Câu chuyện Đông Anh cũng giống như Ba Vì năm nào dường như đang được lặp lại. Anh Phúc Anh tiết lộ, các cò đất lớn chủ yếu là những nhà đầu tư muốn bán đất nên "thổi" giá lên. Cò đất lúc này đóng ba vai vừa là người mua, người bán đồng thời là trung gian dẫn dắt khách hàng. Khi thấy giá đất hạ, cò sẽ mua với giá rẻ, chờ đến lúc lên thì bán ra.

Mỗi mảnh đất sẽ qua nhiều "cò" và cứ qua mỗi người, giá đất lại cao lên một chút để hưởng hoa hồng. Những "cò" hưởng giá chênh ở mức giữa thường có vốn nhỏ, các "cò" lớn thuộc tầm đại gia có khả năng tung vốn thu gom đất của dân để bán. “Hiện tại đất Đông Anh không sốt mà chỉ bình bình, người nhu cầu thực vẫn đến mua. Nói đất đang sốt chỉ là tin đồn, có chăng chỉ một số khu vực gần cầu Nhật Tân như Vĩnh Ngọc, Hải Bối được nhiều người quan tâm hơn mà thôi”, anh Anh nói.

Ông Nguyễn Đăng Nam, Phó phòng Quản lý quy hoạch và đô thị huyện Đông Anh, cho biết, theo quy hoạch chung của thủ đô định hướng đến 2030 tầm nhìn đến 2050 thì sông Hồng vẫn làm trung tâm của Hà Nội, phần lớn đất của Đông Anh là nằm trong khu vực phát triển đô thị. Theo đó, trên địa bàn huyện hiện đã quy hoạch thành 7 chùm đô thị, bao gồm: trung tâm tài chính quốc tế ở khu vực Phương Trạch - Vĩnh Ngọc; Trung tâm triển lãm quốc tế ở khu Vân Trì kéo dài đến Bắc Hồng; ngoài ra còn các khu trung tâm thương mại, khu đô thị mới cũng đã được phê duyệt như KĐT mới Nam Hồng, Kim Chung, KĐT mới Đại Mạch...

Theo ông Nam, từ khi trình Chính phủ đồ án Quy hoạch chung HN mở rộng thì đất tại Đông Anh đã sốt, và từ năm ngoái đến năm nay giá đất tại đây chưa có gì đột biến. Đất Đông Anh ở khu vực ven quy hoạch cũng chỉ có giá xấp xỉ khoảng 30-40 triệu, ngoại trừ những khu vực vị trí đẹp giá cao hơn một chút. Các trường hợp giá quá cao là do hiện tượng văn phòng môi giới thổi giá.

"Tôi cho rằng thời điểm này thích hợp để mua đất phục vụ nhu cầu thực. Các nhà đầu tư cần phải cân nhắc nghiên cứu kỹ vì quy hoạch chung của Hà Nội vẫn còn chưa được chính thức công bố", ông Nam khuyên.


(Theo Vnexpress)

Xăng dầu tăng từ 2.000-2.800 đồng/lít

Bắt đầu từ 22 giờ ngày 29.3, Bộ Tài chính cho phép các DN kinh doanh xăng dầu đầu mối tăng giá đồng loạt các mặt hàng xăng dầu.

Cụ thể, giá mặt hàng xăng tăng 2.000đ/lít - tương ứng mức tăng từ 19.300đ/lít lên 21.300đ/lít (ảnh), mặt hàng diesel tăng 2.800đ/lít từ 18.300đ/lít lên 21.100đ/lít, dầu hoả tăng 2.600đ/lít từ 18.200đ/lít lên 20.800đ/lít, madut tăng 2.000đ/kg từ 14.800đ/kg lên 16.800đ/kg.

Theo quan điểm của Bộ Tài chính thì đây là một trong những biện pháp thực hiện lộ trình điều hành giá xăng dầu, điện theo cơ chế thị trường. Đại diện Bộ Tài chính cho biết, mặt hàng xăng dầu tiêu dùng trong nước hiện nay chủ yếu phải nhập khẩu, giá trong nước phụ thuộc vào sự biến động của giá thị trường thế giới.

Từ 22h ngày 29.3, xăng A92 có giá bán là 21.300 đồng/lít. Ảnh: Giang Huy
Từ 22h ngày 29.3, xăng A92 có giá bán là 21.300 đồng/lít. Ảnh: Giang Huy

Giá xăng dầu thế giới kể từ sau ngày các DN điều chỉnh giá xăng dầu trong nước ngày 24.2 đến nay luôn dao động và tăng ở mức cao do tình hình bất ổn chính trị ở Trung Đông và Bắc Phi.

Một số dự báo cho rằng giá dầu thô trong thời gian tới có khả năng tiếp tục tăng. Giá xăng dầu thế giới từ sau ngày điều chỉnh giá xăng dầu trong nước đến nay so với giá bình quân 30 ngày trước đó đã tăng từ 12,63 - 17,29% tuỳ theo từng chủng loại xăng dầu. Do giá xăng dầu thế giới liên tục tăng, giá bán trong nước hiện hành vẫn giữ ổn định nên kinh doanh xăng dầu gặp nhiều khó khăn và chênh lệch giữa giá trong nước với các nước lân cận (Trung Quốc, Lào, Campuchia) khoảng từ 4.800đ/lít đến 7.000đ/lít tuỳ theo từng mặt hàng và từng nước khiến tình trạng buôn lậu xăng dầu ở khu vực các tỉnh phía nam diễn ra rất phức tạp.

Sau khi điều chỉnh giá xăng dầu như trên, so với giá các nước xung quanh thì giá xăng dầu của nước ta vẫn thấp hơn giá các nước lân cận (Lào, Trung Quốc, Campuchia) khoảng từ 2.300 đồng/lít - 5.000 đồng/lít. Nếu tính đủ thuế và lợi nhuận cho doanh nghiệp thì mức điều chỉnh giá bán lần này mới chỉ bằng 34,73-50,27% tổng mức giá phải điều chỉnh theo quy định của Nghị định số 84/2009/NĐ-CP ngày 15.10.2009 của Chính phủ về kinh doanh xăng dầu.

Để giải quyết tình hình trên, trong khi đã áp dụng hết các giải pháp về tài chính khác (thuế nhập khẩu đã giảm về mức 0% và Quỹ Bình ổn giá đã sử dụng hết), vì vậy cần thiết phải tiếp tục điều chỉnh giá để giảm bao cấp một bước về giá xăng dầu và để phản ánh đúng giá hàng hoá, dịch vụ khi sản xuất, kinh doanh có sử dụng xăng dầu.

Đại diện Bộ Tài chính cũng cho biết cùng với quyết định tăng giá xăng dầu, Nhà nước tiếp tục giữ mức thuế nhập khẩu 0% với tất cả các mặt hàng xăng dầu, đồng thời Nhà nước yêu cầu DN giảm chi phí kinh doanh. Sau lần điều chỉnh giá xăng dầu trên đây, trong thời gian tới: Tiếp tục thực hiện kinh doanh xăng dầu theo cơ chế thị trường, cụ thể: Nếu giá thế giới tăng, thì điều chỉnh giá trong nước; nếu giá thế giới giảm thì khôi phục thuế nhập khẩu ở mức hợp lý và thực hiện giảm giá bán nếu có điều kiện.

(Theo Laodong.com.vn)

Saturday 26 March 2011

"Đại gia" Việt Nam cho vay hơn 433 ngàn tỷ đồng

Một doanh nghiệp tại TP Hồ Chí Minh có các hợp đồng cho đối tác vay hơn 433.000 tỷ đồng. Điều đáng nói là, vốn điều lệ của công ty chỉ có 2 tỷ đồng.

UBND tỉnh Đắk Lắk vừa có Công văn số 1156/UBND-NC gửi các sở, ban, ngành; UBND các huyện, thị xã, TP; giám đốc các doanh nghiệp trên địa bàn về việc cảnh giác với hoạt động lừa đảo của Cty Cổ phần Tân Thiên Bảo Ước Nguyện.


Công văn của UBND tỉnh Đắk Lắk
Theo báo cáo của Công an tỉnh, trong thời gian qua, Cty Cổ phần Tân Thiên Bảo Ước Nguyện đã ký hợp đồng cho vay vốn với 165 đơn vị doanh nghiệp trong cả nước, với tổng số tiền 433.054.403.582.658 đồng.

Tại địa bàn tỉnh Đắk Lắk có 5 cơ quan, doanh nghiệp ký hợp đồng vay vốn của Cty Cổ phần Tân Thiên Bảo Ước Nguyện 2.962 tỷ đồng, gồm: Cty TNHH Bệnh viện Đa khoa Nhân An vay 450 tỷ đồng; Trường Mẫu giáo Hoa Phượng vay 110 tỷ đồng; dự án trồng rừng kinh tế bằng cây cao su của Cty TNHH Hữu Bích vay 352 tỷ đồng; Cty Cổ phần Xuất nhập khẩu Nông sản 722 vay 1.500 tỷ đồng; Cty Cổ phần Đầu tư Cao Nguyên vay 550 tỷ đồng.

Qua xác minh của cơ quan công an, Cty Cổ phần Tân Thiên Bảo Ước Nguyện được thành lập ngày 21/12/2010; địa chỉ tại 666/68 đường3/2, phường 14, quận 10, TP Hồ Chí Minh; mã số doanh nghiệp 0310531392 do Sở Kế hoạch và Đầu tư TP Hồ Chí Minh cấp; ngành nghề kinh doanh là xây dựng công trình công nghiệp và dân dụng, phá dỡ, chuẩn bị mặt bằng, hoạt động hỗ trợ dịch vụ tài chính. Giám đốc là bà Ngô Thị Thúy Hằng và 3 thành viên khác.

Điều đáng nói là, vốn điều lệ của Cty chỉ có 2 tỷ đồng nên số tiền đơn vị này cho vay tới trên 433 nghìn tỷ là hoàn toàn không thể.

Để ngăn chặn kịp thời hành vi lừa đảo của Cty Cổ phần Tân Thiên Bảo Ước Nguyện, Chủ tịch UBND tỉnh Đắk Lắk yêu cầu lãnh đạo các sở, ban, ngành; UBND các huyện, thị xã, TP; giám đốc các doanh nghiệp trên địa bàn, khi quan hệ giao dịch, làm ăn với các đối tác cần tỉnh táo, cảnh giác; đặc biệt đối với Cty Cổ phần Tân Thiên Bảo Ước Nguyện, nếu không sẽ lâm vào tình cảnh của các cơ quan, đơn vị nói trên, dẫn đến mất hết tài sản khi ký hợp đồng vay vốn có thế chấp.

DDDN-Theo Thanh tra

Thursday 24 March 2011

Sự hài hòa giữa chính sách thuế và chuẩn mực kế toán

Sự hài hòa giữa chính sách thuế và chuẩn mực kế toán

Mối quan hệ giữa chính sách thuế và chuẩn mực, chế độ kế toán luôn là vấn đề được các nhà xây dựng chính sách của các quốc gia đặc biệt quan tâm. Nghiên cứu lịch sử thông lệ kế toán và chính sách thuế các nước có thể thấy tồn tại 2 quan điểm về mối quan hệ này:

TS. Mai Ngọc Anh

Sự thống nhất giữa chính sách thuế và kế toán

Theo quan điểm này, các quy định của chính sách thuế và chuẩn mực, chế độ kế toán liên quan có sự thống nhất với nhau. Thông tin kế toán được sử dụng trực tiếp cho mục đích tính thuế mà không cần thực hiện điều chỉnh.

Quan điểm này có sự thống nhất giữa chính sách kế toán và chính sách thuế, nên giảm thiểu được sự phức tạp trong việc sử dụng thông tin kế toán cho mục đích kê khai, quyết toán thuế, đặc biệt đối với các doanh nghiệp có quy mô nhỏ và vừa. Ngoài ra, sự thống nhất giữa chính sách thuế và kế toán cũng đảm bảo sự lãnh đạo thống nhất, quản lý tập trung của Nhà nước đối với nền kinh tế.

Tuy nhiên, việc thống nhất chính sách kế toán và chính sách thuế có thể dẫn đến thông tin kế toán chủ yếu đặt trọng tâm vào mục tiêu tính thuế nên sẽ giảm tính hữu ích đối với các chủ thể sử dụng thông tin khác. Hạn chế này càng bộc lộ rõ trong điều kiện thực hiện nền kinh tế toàn cầu. Vì vậy, hiện nay quan điểm này ít được áp dụng khi xây dựng chính sách thuế và kế toán của các quốc gia.

Sự độc lập tương đối giữa chính sách thuế và kế toán

Theo đó, các quy định của chính sách thuế và chuẩn mực, chế độ kế toán có sự độc lập tương đối. Thông tin kế toán được cung cấp cho các đối tượng sử dụng khác nhau và cần thực hiện điều chỉnh cho mục đích tính nghĩa vụ thuế.

Quan điểm này đảm bảo chính sách kế toán và chính sách thuế được xây dựng theo các mục tiêu khác nhau, phù hợp với đặc thù của từng chính sách. Với tư cách là một công cụ điều tiết kinh tế, chính sách thuế hướng đến mục tiêu điều tiết kinh tế vĩ mô và đảm bảo nguồn thu của ngân sách nhà nước trong từng thời kỳ, phù hợp với mục tiêu phát triển và các chính sách kinh tế khác. Trong khi đó, hệ thống kế toán được xây dựng nhằm cung cấp thông tin tài chính thích hợp và tin cậy cho các đối tượng có nhu cầu sử dụng thông tin, nhằm giúp chủ thể ra các quyết định kinh tế phù hợp. Vì vậy, thông tin kế toán cần đảm bảo tính trung lập, không nhất thiết thiên về mục đích tính thuế của đơn vị.

Ngược lại, sự khác biệt giữa chính sách thuế và kế toán làm gia tăng tính phức tạp cho công tác kế toán tại các đơn vị, cũng như sự phức tạp trong việc sử dụng thông tin kế toán để kê khai, quyết toán thuế. Về phương diện quản lý nhà nước sự khác biệt giữa chính sách kế toán và chính sách thuế cũng gây ra những khó khăn, phức tạp nhất định đối với công tác quản lý, kiểm tra việc chấp hành nghĩ vụ thuế của các đơn vị.

Qua phân tích 2 quan điểm trên, có thể nhận thấy việc lựa chọn vận dụng quan điểm nào để xây dựng chính sách thuế trong mối quan hệ với hệ thống kế toán đều có những ưu điểm và hạn chế nhất định, phù hợp với điều kiện kinh tế, chính trị, xã hội và cơ chế quản lý kinh tế của mỗi quốc gia trong từng giai đoạn phát triển. Trong điều kiện hiện nay, các quốc gia điều hành nền kinh tế vận hành theo cơ chế thị trường, quan điểm xây dựng chính sách thuế có sự độc lập tương đối với chính sách kế toán là phổ biến, vì những lý do sau đây:

Một là, sự phát triển của nền kinh tế thị trường với nhiều thành phần kinh tế có lợi ích khác nhau. Nhu cầu đối với thông tin kế toán ngày càng đa dạng đòi hỏi hệ thống kế toán phải được xây dựng trên nguyên tắc đảm bảo tính tin cậy và trung lập giữa các đối tượng. Hệ thống kế toán không thiên về mục đích tính thuế.

Hai là, xu hướng toàn cầu hóa nền kinh tế các nước dẫn đến việc hài hòa các chuẩn mực kế toán diễn ra mạnh mẽ theo định hướng của hệ thống chuẩn mực kế toán và chuẩn mực báo cáo tài chính quốc tế cho dù mức độ phát triển kinh tế xã hội ở các nước là khác nhau. Ngược lại, chính sách thuế chịu sự ảnh hưởng sâu sắc của điều kiện kinh tế xã hội, chính sách thuế chịu sự ảnh hưởng sâu sắc của điều kiện kinh tế xã hội, chính sách quản lý kinh tế cụ thể ở từng quốc gia trong từng giai đoạn phát triển. Xu hướng hài hòa mang tính toàn cầu về chính sách thuế thường diễn ra chậm hơn so với hệ thống kế toán.

Ba là, sự phát triển nhanh chóng và ngày càng phức tạp của nền kinh tế thị trường, đặc biệt là thị trường tài chính dẫn đến phát sinh nhiều vấn đề kế toán phức tạp. Kế toán hiện đại có xu hướng coi trọng tính thích hợp của thông tin và "mô phỏng" tình hình tài chính và kinh doanh trong tương lai của doanh nghiệp nhiều hơn. Ngược lại, để thực hiện được chức năng của mình, chính sách thuế vẫn thiên về sử dụng thông tin kết quả thực hiện trong quá khứ của doanh nghiệp.

Hài hòa giữa chính sách thuế và hệ thống kế toán trong xu hướng toàn cầu

Sự khác biệt giữa chính sách thuế nói chung và chính sách thuế TNDN nói riêng với hệ thống kế toán mang tính tất yếu trong điều kiện các nước đều thực hiện nền kinh tế thị trường và trong xu hướng toàn cầu hóa nền kinh tế. Trên thực tế, sự khác biệt này đang trở nên phổ biết trong những năm gần đây cùng với việc hệ thống kế toán có những thay đổi mạnh mẽ, liên quan đến việc sử dụng cách tiếp cận giá trị hợp lý và coi trọng đến kế toán dự phòng rủi ro.

Các nhà quản lý kinh tế lo ngại rằng, sự khác biệt quá lớn giữa chính sách thuế và hệ thống kế toán có thể làm gia tăng tính phức tạp của thông tin kế toán đối với người sử dụng, phát sinh thêm chi phí đối với các doanh nghiệp trong quá trình xử lý, thông tin kế toán phục vụ cho mục đích tính thuế. Các cơ quan quản lý thuế nhà nước cũng quan ngại về những khó khăn sẽ nảy sinh trong quá trình quản lý và kiểm soát nghĩa vụ thuế của các đơn vị. Vấn đề hài hòa các quy định của chính sách thuế và hệ thống kế toán một cách hợp lý lại được đặt ra đối với các nhà nghiên cứu và ban hành chính sách. Ở Mỹ và một số nước Châu Âu đã có những ủy ban độc lập nghiên cứu và đưa ra ý kiến tư vấn khi các chuẩn mực kế toán, chính sách thuế TNDN được ban hành, nhằm hài hòa một cách hợp lý các chính sách này. Ở một số nước khác, Chính phủ yêu cầu các tổ chức nghề nghiệp ban hành chuẩn mực kế toán và cơ quan thuế định kì tổ chức các cuộc họp, hội thảo nhằm xác định và xử lý các vấn đề còn xung đột giữa chuẩn mực kế toán và chính sách thuế. Những động thái gần đây cho thấy, xu hướng hài hòa một cách hợp lý chính sách thuế và hệ thống kế toán là hiện hữu và sẽ tiếp tục được đặt ra trong thời gian tới trên phạm vi toàn cầu.

Hài hòa chính sách thuế và chuẩn mực, chế độ kế toán Việt Nam

Kể từ khi thực hiện đổi mới cơ chế quản lý kinh tế theo quy định hướng kinh tế thị trường, nhất là trong những năm gần đây. Chính sách thuế và hệ thống kế toán Việt Nam đã có nhiều thay đổi theo hướng ngày càng phù hợp hơn với cơ chế quản lý mới và hội nhập với các nền kinh tế trong khu vực và trên thế giới. Cùng với xu thế này, sự khác biệt giữa chính sách thuế và hệ thống chuẩn mực, chế độ kế toán đã xuất hiện và ngày càng trở nên rõ ràng.

Sự khác biệt giữa chính sách thuế và hệ thống kế toán Việt Nam còn trở nên sâu sắc hơn, khi hệ thống kế toán tiếp tục hội nhập sâu hơn với thông lệ kế toán quốc tế. Thực tế này sẽ đặt ra nhiều khó khăn cho công tác quản lý của các cơ quan chức năng cũng như việc chấp hành chế độ chính sách tại các doanh nghiệp. Vì vậy, vấn đề đặt ra là cần hài hòa một cách hợp lý sự khác biệt giữa chúng, trong đó cần quan tâm giải quyết một số nội dung cơ bản.

Trước xu hướng hội nhập kinh tế ngày càng sâu rộng của Việt Nam với các nước trong khu vực và trên thế giới, chính sách thuế và chính sách kế toán cần được đổi mới một cách đồng bộ trong mối quan hệ mất thiết, kế thừa với nhau. Các cơ quan soạn thảo và hoạch định chính sách thuế và chính sách kế toán, cần tăng cường trao đổi, hội thảo để xác định và từng bước thu hẹp khoảng cách giữa các chính sách một cách hợp lý. Trong quá trình soạn thảo các chính sách cần tăng cường các kênh phản biện, góp ý chính sách của các nhà nghiên cứu có sự tham gia của các doanh nghiệp, đơn vị để đảm bảo các chính sách bám sát thực tiễn, đồng thời có sự hài hòa với nhau trong quá trình triển khai áp dụng trong thực tiễn./.

(Theo Thuế NN)

Nguồn: www.vacpa.org.vn

Tuesday 22 March 2011

Đất nền Hà Nội: Đông, tây, nam, bắc...cùng nóng

Không ồn ào như cơn sốt đất Ba Vì trước đó khoảng 1 năm, nhưng những thông tin như di chuyển các trường đại học ra ngoại thành, quy hoạch chung Hà Nội mở rộng sắp được phê duyệt dường như đang hun nóng thị trường nhà đất vùng ven Hà Nội...
Hạ tầng ngày càng phát triển khiến Sóc Sơn trở thành đích ngắm của nhiều nhà đầu tư
Sóc Sơn “sôi sục”
Khoảng một tháng nay, huyện Sóc Sơn – ngoại thành Hà Nội sôi động hẳn khi thông tin Hà Nội dự kiến di dời 25 bệnh viện, 13 Viện nghiên cứu, 12 trường đại học, cao đẳng ra ngoại thành, trong đó nhiều trường được chuyển về đây đã khiến người dân khấp khởi từng ngày.
Theo khảo sát của phóng viên Diễn đàn Doanh nghiệp Online, dường như ngày nào cũng có người đến hỏi mua khiến giá đất mỗi ngày được đẩy lên cao. Điển hình như mặt đường Quốc lộ 2, thuộc khu vực xã Thanh Xuân, giá đất lên đến 25 triệu đồng/m2. Khu vực Phố Kim Anh – Sóc Sơn cũng xấp xỉ 20 triệu đồng/m2, mặt đường Thạch Lỗi cũng được bán với giá 30 – 35 triệu đồng/m2, còn bình quân giá trong làng khoảng từ 5-6 triệu đồng/m2. Điều đáng nói là cách đây chưa đầy nửa năm, giá các mảnh đất trên chỉ dao động từ 10 - 15 triệu đồng/m2 là kịch trần. Với mức giá đó người mua không nhiều, thế mà giờ đây kịch bản đã thay đổi hẳn.
Đầu năm ngoái, một miếng đất 200m2 có vị trí tốt đất ở Minh Phú - Sóc Sơn có giá 2 triệu đồng/m2. Tuy nhiên, con số đó hiện nay là 8 triệu đồng/m2. Năm ngoái, khi những thông tin ban đầu về di chuyển các cơ sở xây dựng lên Sóc Sơn, đất các xã Quang Tiến, Mai Đình nhúc nhích tăng giá. Miếng khá đẹp với giá dưới 2 triệu đồng/m2. Nay thông tin có vẻ rõ ràng hơn thì giá đã cao gấp 4-5 lần.
Người dân ở nội thành và một số tỉnh lân cận về hỏi mua đông nên khu vực này đã hình thành một đội quân chuyên môi giới đất, nhờ công việc này mà họ cũng kiếm được “kha khá”.
Một điều lạ, đến Sóc Sơn, hỏi bất kỳ người nào, ai cũng biết thông tin Hà Nội dự kiến di dời 25 bệnh viện, 13 Viện nghiên cứu, 12 trường đại học, cao đẳng ra ngoại thành, trong đó Sở Quy hoạch Kiến trúc Hà Nội đề xuất Trường Đại học Công đoàn, Trường Đại học Kinh tế - Kỹ thuật công nghiệp, Viện y học lâm sàng các bệnh nhiệt đới…ra Sóc Sơn. Chính lý do chưa ấn định vị trí nên đất khu vực Sóc Sơn chỗ nào cũng tăng.
Điểm đáng chú ý nữa là hạ tầng giao thông ở Sóc Sơn đang được đầu tư mạnh. Điển hình như dự án cao tốc Nội Bài - Hạ Long có chiều rộng 100m đi qua huyện Sóc Sơn và kết thúc tại vị trí đầu nối với đường cao tốc Côn Minh - Hà Khẩu (Trung Quốc) tại xã Quang Kim, huyện Bát Xát, tỉnh Lào Cai. Theo kế hoạch, toàn bộ dự án đường cao tốc Nội Bài - Lào Cai sẽ hoàn thành vào năm 2013.
Đường 35 đang được cải tạo mở rộng có điểm đầu từ Quốc lộ 2 chạy qua Bái Thượng, Nam Cương, Minh Phú, Nam Sơn tới Quốc lộ 3 dài 17 km. Sắp tới, Quốc lộ 32 nối thẳng nội thành, qua Sóc Sơn lên Thái Nguyên và hàng loạt tỉnh khác cũng được mở rộng… khiến khu vực này đã hấp dẫn lại càng hấp dẫn hơn.
Không chỉ có người mua đất nền, đất thổ cư. Trong thời gian gần đây, xuất hiện một làn sóng ồ ạt đi săn lùng mua đất ruộng mặt đường Quốc lộ và đất xen kẹt. Sở dĩ, bởi đất ruộng ở đây được rao bán rất rẻ, chỉ dao động từ 1,5 – 2 triệu đồng/m2. Đất ruộng ở khu vực sâu hơn được bán với giá 300 – 350 triệu đồng/sào.
Chị Lan Anh (Phố Thanh Nhàn, Sóc Sơn) cho biết, mua đất này vừa rẻ lại có mặt tiền kinh doanh, hơn nữa, nếu khôn khéo lại có thể làm được sổ đỏ (?).
Các chuyên gia BĐS cũng khuyên rằng: “Mặc dù lợi nhuận của các mảnh đất này rất cao nhưng tỷ lệ ăn thua là 50/50. Nếu mua đất mà dính vào quy hoạch là coi như mất trắng, còn nếu không thì thắng lớn”.
Chương Mỹ: Chóng mặt, mỗi ngày một giá
Không chỉ có "sóng" ở huyện Sóc Sơn, cách trung tâm quận Hà Đông khoảng 8km, thị trấn Chúc Sơn thuộc huyện Chương Mỹ nằm trong dự án xây dựng mở rộng một số trường Đại học, khu Công nghiệp, cùng với đó đất nền tại đây đang tăng giá chóng mặt, mỗi ngày một giá.
Theo khảo sát của phóng viên, hiện khu đất nền mặt tiền thị trấn Chúc Sơn bao gồm khu Hòa Sơn, khu Bắc Sơn, có giá 80-100 triệu đồng/m2. Theo một số “cò” đất, khu vực này thuộc trung tâm thị trấn, gần bệnh viện, ủy ban, bến xe, trường học, hơn nữa sau này sẽ xây dựng ĐH Thủy Lợi, ĐH Nông Nghiệp.
Dự án Đại học Thủy Lợi mở rộng là một trong những miếng mồi được "cò" đẩy giá đất
Khoảng một năm về trước, đất tại đây có giá 40 triệu đồng/m2. Sau khi UBND TP Hà Nội chính thức phê duyệt dự án xây dựng mở rộng ĐH Thủy Lợi với quy mô diện tích khoảng 57,3ha, thì đất ở đây bắt đầu tăng giá từng ngày. Có lẽ cũng vì cái “chắc chắn” này, mà đất tại đây được “cò” khuyến cáo nên mua nhanh vì người bán không nhiều, đất sẽ còn tăng giá nữa.
“Cò” Tuấn - một người khá thông thạo khu vực cho biết, giá đất từ cuối năm ngoái đến nay luôn nóng, anh có một mối định mua một mảnh gần khu dự án trường ĐH, người ta bán giá 20 triệu/m2, mấy hôm sau, một người khác mạnh dạn mua miếng đất ấy giá 22 triệu/m2. Hai ngày sau anh ta bán được giá 25 triệu/m2, hiện được giao bán giá 35 triệu/m2.
“Cò” Tuấn cho biết thêm, hiện tại giá đất mặt tiền quốc lộ 6 từ 40-45 triệu đồng/m2, đất quanh khu vực sẽ xây dựng trường ĐH Thủy Lợi là 30-35 triệu/m2, đầy đủ giấy tờ, sổ đỏ. Không chỉ đất mặt tiền tăng giá mạnh, đất trên đồi, núi gần chùa Hỏa Tinh cũng lên đến 17 triệu/m2. Đất trong làng nếu ô tô vào được giá 20-22 triệu/m2, sâu hơn giá 7-15 triệu/m2.
Ông Tâm, bán nước gần khu dự án cho biết, “Người ta tới xem quy hoạch dự án xây dựng đến đâu rồi mua đất quanh đó. Đất ruộng cũng mua, đất không giấy tờ cũng mua, giá bán khoảng 5-7 triệu/m2. Người dân cũng chẳng cần biết họ mua để làm gì, muốn mua thì bán thôi”.
Các chuyên gia BĐS cho biết, đất khu phía Tây và Nam của Hà Nội đang ngày càng nóng lên là nhờ quy hoạch tổng thể của thủ đô sắp được phê duyệt. Theo dự thảo đang được thảo luận, Hà Nội sẽ có 3 đô thị vệ tinh là Hoà Lạc, Sơn Tây, Sóc Sơn, Phú Xuyên, Xuân Mai và 3 đô thị sinh thái là Quốc Oai, Chương Mỹ và Phúc Thọ. Đây là một trong những lý do khiến giá đất khu vực này tăng nhanh đến vậy.
Văn Điển: 'Đất chết' thành đất hứa
Đất Văn Điển từng bị rẻ rúng vì có khu nghĩa địa nhưng giờ đây gió đã xoay chiều nhanh chóng, nhất là khi nghĩa trang Văn Điển đóng cửa từ cuối năm ngoái. Đất nền ở khu vực này tăng giá rất mạnh. Khu vực phía nam Linh Đàm xuống đến thị trấn Văn Điển và các xã lân cận cũng đang bước vào cơn sốt đất mới. Hiện nay, giá đất ở trong làng thuộc nay đang cao hơn rất nhiều so với một số địa chỉ nằm gần đó dù còn thuận lợi hơn nhiều như khu cầu Tó, cầu Bươu, thị trấn Văn Điển... Các xã Vĩnh Quỳnh, Ngọc Hồi, Tứ Hiệp, Thanh Liệt đã trở thành điểm nóng về nhà đất. So với trước Tết, giá đất nay đã tăng thêm cả chục triệu đồng. Những khu nằm sâu trong làng, rẻ nhất cũng phải hơn 35 triệu đồng/m2. Đất mặt ngõ rộng hơn được 'quát' giá 40-47 triệu đồng/m2. Dù giá đất vọt lên như vậy nhưng người dân cũng không vội bán vì sợ bị hớ.
Có ý kiến cho rằng một trong những lý do khiến đất sốt trên diện rộng ở khu phía Nam thành phố này là sự phát triển ngày càng mở rộng về phía nam Hà Nội với việc xây dựng và hình thành một loạt các tuyến đường và khu đô thị mới. Tất cả đang tạo ra cú hích mới cho khu vực cửa ngõ phía nam Hà Nội.
Điều đáng nói là mặc dù Chính phủ đã tuyên bố siết tín dụng đổ vào bất động sản nhằm kiềm chế lạm phát nhưng diễn biến tình hình lại cho thấy dòng tiền dường như vẫn tiếp tục đổ vào thị trường bất động sản Hà Nội. Cũng có ý kiến nhận định do các kênh đầu tư như vàng, ngoại tệ đã bị đóng lại, thị trường chứng khoán thì ảm đạm nên tiền sẽ tìm đường chạy sang bất động sản.

(Theo DDDN)

10 công việc 'hot' nhất năm 2011

Năm 2011 được đánh giá là năm nền kinh tế đang trên đà phục hồi, vì vậy nhu cầu mở rộng kinh doanh cũng như tuyển dụng nhân viên mới được các doanh nghiệp quan tâm và chú trọng phát triển. Theo khảo sát của CareerBuilder, năm 2011, sẽ có 10 nghề được quan tâm nhất gồm:

Bán hàng

Doanh thu là một trong những yếu tố quan trọng giúp doanh nghiệp phát triển. Để làm được điều này, các công ty đều phải tăng cường đầu tư cho đội ngũ bán hàng của họ.

Theo khảo sát của CareerBuilder, khoảng 27% các nhà quản lí nhân sự cho biết họ có kế hoạch tuyển dụng thêm vị trí bán hàng cho năm 2011.

Doanh thu cao nhất cho ngành nghề này thuộc về lĩnh vực tài chính, thiết bị máy tính, điện tử, dược phẩm...

Công nghệ thông tin

Nhu cầu về nhân lực ngành công nghệ thông tin trong năm 2011 khá rõ ràng khi yêu cầu về công nghệ mới, nâng cấp, bổ sung công nghệ sẵn có trong mọi lĩnh vực kinh tế đang không ngừng gia tăng.

Theo CareerBuilder, 26% các nhà quản lí tuyển dụng cho biết họ sẽ thuê thêm nhân viên IT trong năm nay.

Đại diện cho nhóm phụ trách nghiên cứu này cho biết, công nghệ thông tin là một trong những nhóm ngành có tốc độ tăng trưởng cao nhất, lên tới 45% chỉ trong 1 năm.

Dịch vụ chăm sóc khách hàng

Bán hàng là một yếu tố quan trọng để tăng doanh thu và lợi nhuận cho công ty. Còn dịch vụ chăm sóc khách hàng lại là yếu tố không thể thiếu nếu bạn muốn giữ chân khách hàng trong tương lai.

Khoảng 25% các nhà tuyển dụng cho biết họ đang có kế hoạch tăng cường đội ngũ nhân viên chăm sóc khách hàng trong năm 2011 này.

Nhu cầu về thuê mướn nhân viên chăm sóc khách hàng tập trung chủ yếu trong lĩnh vực bảo hiểm, tài chính...

Kỹ sư

Các kĩ sư không tham gia vào qua trình bán hàng tạo doanh thu, cũng không đóng góp công sức trong việc chăm sóc khách hàng. Tuy nhiên, họ tham gia vào khâu quan trọng trong quá trình sản xuất của doanh nghiệp: nâng cao hiệu quả sản xuất - kinh doanh. Điều này được thực hiện thông qua việc áp dụng công nghẹ khoa học kĩ thuật cao, giúp doanh nghiệp cắt giảm chi phí và nâng cao lợi nhuận.

Sự phát triển của các sản phẩm công nghệ như điện thoại thông minh, mạng xã hội... cũng góp phần nâng cao vị thế của các kĩ sư trong doanh nghiệp.

Khoảng 20% nhà quản lí tuyển dụng được phỏng vấn cho biết họ sẽ thuê thêm kĩ sư trong năm tới.

Theo thống kê của Bộ lao động Mỹ thì thu nhập của kĩ sư dầu khí là cao nhất, tiếp theo là kĩ sư phần cứng máy tính, kĩ sư hạt nhân và hàng không vũ trụ.

Công nghệ

Mang nghĩa rộng hơn và bao hàm cả ngành công nghệ thông tin, lính vực công nghệ được nhận định sẽ là một trong những ngành nghề có nhu cầu thuê mướn tăng cao trong trong mọi lĩnh vực có liên quan.

Khảo sát của CareerBuilder cho thấy khoảng 19% nhà tuyển dụng sẽ cần thêm nhân lực trong lĩnh vực này.

Quản lí

Việc tăng cường thuê mướn các nhân viên để mở rộng công việc kinh doanh trong năm tới cũng đặt ra cho các nhà tuyển dụng áp lực nâng cao đội ngũ quản lí để đảm bảo hiệu quả tương xứng.

Khoảng 17% các nhà tuyển dụng sẽ lên kế hoạch tuyển thêm người cho vị trí này trong năm 2011.

Marketing

Giống như bán hàng và phát triển kinh doanh, marketing có là một phần của chiến lược tăng trưởng và phát triển của doanh nghiệp.

Chi tiêu của khách hàng và việc đầu tư của doanh nghiệp đều được dự đoán sẽ khởi sắc trong năm 2011. Điều này có nghĩa là các công ty cần tăng cường sự nhận biết thương hiệu sản phẩm đối với khách hàng và mở rộng công việc kinh doanh.

Chỉ riêng trên trang web CareerBuilder.com đã có khoảng 80.000 công việc liên quan đến lĩnh vực này.

Dự báo, khoảng 17% doanh nghiệp sẽ mở rộng đội ngũ marketing để tăng cường chiến lược quảng bá sản phẩm.

Nghiên cứu, phát triển

Đây là một trong những lĩnh vực sẽ được các doanh nghiệp chú trọng trong tương lai nhằm tạo ra những bước đột phá và lợi thế cạnh tranh cho mình.

Tuy nhiên, đầu tư cho nghiên cứu phát triển không phải là một khoản chi phí nhỏ nên chỉ có khoảng 15% doanh nghiệp cho biết sẽ rót tiền vào lĩnh vực này.

Phát triển kinh doanh

Vị trí này bao gồm những người nắm giữ trọng trách nâng cao độ nhận biết về thương hiệu đối với khách hàng, tạo điều kiện thuận lợi cho những đối tác kinh doanh chiến lược và nhận diện cơ hội cho doanh nghiệp.

17% nhà quản lí nhân sự có thể sẽ tìm kiếm thêm những vị trí này trong tời gian tới, theo CareerBuilder.

Kế toán tài chính

CareerBuilder.com cho biết, khoảng 14% các nhà tuyển dụng được hỏi sẽ cần thêm nhân viên kế toán tài chính trong năm nay. Nhóm nghiên cứu cũng cho biết: vai trò của những người làm trong lĩnh vực này là không thể phủ nhận, họ hỗ trợ hoạt động của công ty và giữ cho tổ chức vận hành trơn tru.
(Theo DDDN)
Nguồn SAGA

Thuế Thu nhập cá nhân: Hai phương án để lựa chọn

Vụ Chính sách thuế, Bộ Tài chính đang trình Chính phủ sửa đổi Luật thuế thu nhập cá nhân (TNCN), trong đó có nội dung đáng chú ý là sửa ngay mức khởi điểm tính thuế. Người nộp thuế ở đô thị sẽ được giảm trừ gia cảnh nhiều hơn người nộp thuế ở khu vực nông thôn.

Cần sớm thể chế hóa mức khởi điểm tính thuế theo hướng tăng mức tính khởi điểm

Theo đó, Bộ Tài chính đề xuất hai phương án, một là nâng mức khởi điểm tính thuế lên bằng 8 lần lương tối thiểu. Phương án hai là hạ thuế suất của bậc thuế đầu tiên từ 5% hiện nay xuống còn 1-2%.

Phương án tính mức khởi điểm chịu thuế và giảm trừ gia cảnh cũng sẽ linh hoạt hơn: Mức khởi điểm tính thuế sẽ thay đổi hàng năm theo mức điều chỉnh của lương tối thiểu; mức giảm trừ gia cảnh cũng sẽ được sửa đổi căn cứ theo mức lương tối thiểu, có thể bằng ba lần lương tối thiểu (hiện giờ là 1,6 triệu đồng/người).

Theo Vụ chính sách thuế, nếu chiếu theo mức lương tối thiểu khu vực sản xuất trong nước hiện nay (tính theo vùng) với mức thấp nhất là 830.000 đồng/tháng và cao nhất là 1.350.000 đồng/tháng thì mức khởi điểm tính thuế TNCN sẽ tương ứng là 6.640.000 đồng và 10.080.000 đồng.

Bộ Tài chính đề xuất hai phương án, một là nâng mức khởi điểm tính thuế lên bằng 8 lần lương tối thiểu. Phương án hai là hạ thuế suất của bậc thuế đầu tiên từ 5% hiện nay xuống còn 1-2%.

Tuy nhiên, hiện tại ở nước ta có nhiều mức lương tối thiểu. Lương tối thiểu khu vực sản xuất trong nước thường cao hơn mức lương tối thiểu khu vực hành chính sự nghiệp và được áp dụng từ ngày 1/1 hàng năm. Hiện có khá nhiều đề xuất đã được các chuyên gia "gợi ý" như tính thuế TNCN theo hộ gia đình. Phương án này dựa trên cơ sở tính tổng thu nhập của cả gia đình chứ không tính thuế trên từng cá nhân có thu nhập như hiện nay. Tổng thu nhập của một hộ sẽ được chia bình quân cho từng người trong mối quan hệ trực hệ. Mỗi người đi làm được tính một suất, hai người phụ thuộc tính thành một suất. Sau đó lấy tổng thu nhập chia cho số suất trong gia đình. Nếu thu nhập trung bình nhỏ hơn mức khởi điểm tính thuế thì không phải nộp thuế và ngược lại. Để thuận tiện, nếu phải nộp thuế thì có thể gom về một mối. Tiền thuế được khấu trừ tại nơi chi trả thu nhập.

Theo lãnh đạo Bộ Tài chính, phương án tính thuế TNCN dựa theo lương tối thiểu đang khó triển khai, trong khi việc khai giảm trừ gia cảnh cũng có nhiều vướng mắc. Chính vì vậy, phương án tính thuế TNCN theo hộ đã được một số nước áp dụng như Nhật Bản rất đáng để VN học tập.

Theo TS Nguyễn Minh Phong, cùng với tốc độ lạm phát cao trong 4 năm qua (tổng cộng tới trên dưới 50%) và việc VN đạt mức thu nhập trung bình thì ngưỡng khởi điểm tính thuế TNCN 4 triệu đồng đã nhanh chóng lạc hậu. Hơn nữa, việc Luật thuế TNCN “chốt” rõ mức khởi điểm tính thuế cụ thể bằng đơn vị VND vừa thấp, lại vừa cứng gây khó cho mỗi lần điều chỉnh trước các biến động tiền lương trên thực tế.

Vì vậy, cần sớm thể chế hóa mức khởi điểm tính thuế theo hướng vừa tăng mức tính khởi điểm, vừa tạo linh hoạt trong áp dụng của đơn vị, đối tượng chịu thuế và cơ quan thuế. Cụ thể, nên tăng ít nhất 2 lần mức khởi điểm chịu thuế và tính bằng số lần lương tối thiểu, chẳng hạn, bằng từ 8-10 lần mưc lương tối thiểu của khu vực sản xuất. Nên mạnh dạn áp dụng mức tính khởi điểm chịu thuế TNCN là 10 lần mức lương tối thiểu trong khu vực sản xuất kinh doanh.

Dự kiến, trong quý II/2011, Chính phủ sẽ có quyết định chính thức về mức khởi điểm chịu thuế chứ không phải năm 2012 mới có thể thay đổi như ý kiến của một số người.

(Theo DDDN)

Đồng ý việc xây TTTM ở khu vực Bắc Sông Hồng

Đây là tin vui đối với chúng tôi, những người con dân của mảnh đất Đông Anh yêu dấu. Xưa kia có Loa Thành - An Dương Vương...nay tự hào có người con Đông Anh ưu tú: Đồng chí Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng...
Tin nóng hổi này sẽ là niềm vui đối với Đông Anh chúng tôi và sẽ là cơ hội và thách thức mới cho Đông Anh-Trung tâm tài chính thương mại Quốc tế và đô thị, dịch vụ đa năng...

Bộ Xây dựng vừa trả lời Văn phòng Chính phủ về việc xây dựng quần thể Trung tâm tài chính thương mại Quốc tế ASEAN và đô thị, dịch vụ đa năng.
Khu vực Bắc sông Hồng sẽ có trung tâm tài chính thương mại quốc tế.

Các chủ đầu tư được đề nghị làm việc với UBND TP Hà Nội để có hướng dẫn cụ thể.

Thứ trưởng Bộ Xây dựng Nguyễn Đình Toàn cho biết, Bộ Xây dựng thống nhất chủ trương triển khai lập quy hoạch xây dựng 2 bên tuyến đường Nhật Tân - Nội Bài và triển khai đầu tư xây dựng Trung tâm tài chính thương mại Quốc tế và đô thị, dịch vụ đa năng tại khu vực Đông Anh, Hà Nội.

Việc lập quy hoạch xây dựng 2 bên tuyến đường Nhật Tân - Nội Bài và xây dựng Trung tâm tài chính thương mại quốc tế ASEAN do Công ty TNHH Motor N.A Việt Nam đề nghị đầu tư.

Trước đó, UBND TP Hà Nội có văn bản gửi Văn phòng Chính phủ đề nghị Thủ tướng Chính phủ xem xét quyết định về chủ trương đầu tư, đồng thời cho phép áp dụng cơ chế đặc thù cả về quy trình triển khai, cơ chế đầu tư, thời gian và tiến độ thực hiện.

(Theo DDDN)

Sunday 20 March 2011

Kiểm toán bắt đầu rà soát Dự án Lọc dầu số 1 Dung Quất

Tổng mức đầu tư ban đầu được phê duyệt năm 1997 của dự án là 1,5 tỷ USD. Tuy nhiên, trong giai đoạn 2005-2008, chủ đầu tư đã đề nghị điều chỉnh con số này lên hơn 3 tỷ USD.

Việc kiểm toán Dự án Lọc dầu số một Dung Quất là một phần trong kế hoạch triển khai của Kiểm toán Nhà nước trong năm 2011 và vừa được cơ quan này khởi động vào cuối tuần qua.

Giá trị quyết toán dự kiến của Dự án Lọc dầu số một Dung Quất ước khoảng 40.000 tỷ đồng. Ảnh PVN
Giá trị quyết toán dự kiến của Dự án Lọc dầu số một Dung Quất khoảng 40.000 tỷ đồng. Ảnh: PVN

Về dự án Nhà máy lọc dầu số một Dung Quất, đây là công trình được Quốc hội thông qua chủ trương đầu tư xây dựng tại kỳ họp thứ 2 khóa X (tháng 12/1997). Tập đoàn Dầu khí Việt Nam (PetroVietnam) được giao làm chủ đầu tư dự án. Sốt ruột với tiến độ dự án, gần 8 năm sau, tại kỳ họp thứ 7 khóa XI (tháng 6/2005), Quốc hội ra nghị quyết yêu cầu tập trung chỉ đạo xây dựng nhà máy.

Tổng mức đầu tư tạm tính của dự án vào năm 1997 là 1,5 tỷ USD. Đến tháng 6/2005, Chính phủ điều chỉnh tổng mức đầu tư lên 2,501 tỷ USD. Trong quá trình triển khai thực hiện dự án (2005-2008), do có nhiều yếu tố biến động về giá cả, tỷ giá ngoại tệ và bổ sung khối lượng công việc, Petro Vietnam xin điều chỉnh tổng mức đầu tư và được duyệt lên mức 3,053 tỷ USD, tương đương 51.720 tỷ đồng (theo tỷ giá trung bình 16.937 VNĐ/USD).

Tuy nhiên, giá trị quyết toán dự kiến chỉ là 40.410 tỷ đồng, do khoản chênh lệch giữa doanh thu và chi phí trong giai đoạn chạy thử nhà máy. Đến nay, công trình cũng đang trong giai đoạn hoàn tất khâu quyết toán.

Cùng với dự án Lọc dầu số 1 Dung Quất, trong tuần tới, nhiều dự án, tỉnh thành cũng nằm trong danh sách kiểm toán của Kiểm toán Nhà nước. Trong đó có dự án đường vành đai 1 (4G-4D), dự án đầu tư cải tạo nâng cấp quốc lộ 32, tỉnh Hòa Bình, tỉnh Hưng Yên và dự án cải tạo quốc lộ 6 đoạn Sơn La - Tuần Giáo...

(Theo Vnexpress)

Kiểm toán bắt đầu rà soát Dự án Lọc dầu số 1 Dung Quất

Tổng mức đầu tư ban đầu được phê duyệt năm 1997 của dự án là 1,5 tỷ USD. Tuy nhiên, trong giai đoạn 2005-2008, chủ đầu tư đã đề nghị điều chỉnh con số này lên hơn 3 tỷ USD.

Việc kiểm toán Dự án Lọc dầu số một Dung Quất là một phần trong kế hoạch triển khai của Kiểm toán Nhà nước trong năm 2011 và vừa được cơ quan này khởi động vào cuối tuần qua.

Giá trị quyết toán dự kiến của Dự án Lọc dầu số một Dung Quất ước khoảng 40.000 tỷ đồng. Ảnh PVN
Giá trị quyết toán dự kiến của Dự án Lọc dầu số một Dung Quất khoảng 40.000 tỷ đồng. Ảnh: PVN

Về dự án Nhà máy lọc dầu số một Dung Quất, đây là công trình được Quốc hội thông qua chủ trương đầu tư xây dựng tại kỳ họp thứ 2 khóa X (tháng 12/1997). Tập đoàn Dầu khí Việt Nam (PetroVietnam) được giao làm chủ đầu tư dự án. Sốt ruột với tiến độ dự án, gần 8 năm sau, tại kỳ họp thứ 7 khóa XI (tháng 6/2005), Quốc hội ra nghị quyết yêu cầu tập trung chỉ đạo xây dựng nhà máy.

Tổng mức đầu tư tạm tính của dự án vào năm 1997 là 1,5 tỷ USD. Đến tháng 6/2005, Chính phủ điều chỉnh tổng mức đầu tư lên 2,501 tỷ USD. Trong quá trình triển khai thực hiện dự án (2005-2008), do có nhiều yếu tố biến động về giá cả, tỷ giá ngoại tệ và bổ sung khối lượng công việc, Petro Vietnam xin điều chỉnh tổng mức đầu tư và được duyệt lên mức 3,053 tỷ USD, tương đương 51.720 tỷ đồng (theo tỷ giá trung bình 16.937 VNĐ/USD).

Tuy nhiên, giá trị quyết toán dự kiến chỉ là 40.410 tỷ đồng, do khoản chênh lệch giữa doanh thu và chi phí trong giai đoạn chạy thử nhà máy. Đến nay, công trình cũng đang trong giai đoạn hoàn tất khâu quyết toán.

Cùng với dự án Lọc dầu số 1 Dung Quất, trong tuần tới, nhiều dự án, tỉnh thành cũng nằm trong danh sách kiểm toán của Kiểm toán Nhà nước. Trong đó có dự án đường vành đai 1 (4G-4D), dự án đầu tư cải tạo nâng cấp quốc lộ 32, tỉnh Hòa Bình, tỉnh Hưng Yên và dự án cải tạo quốc lộ 6 đoạn Sơn La - Tuần Giáo...

(Theo Vnexpress)

Bàn về chỉ tiêu đánh giá hiệu quả hoạt động kiểm toán nội bộ ngân hàng thương mại (Phần II)

BÀN VỀ CHỈ TIÊU ĐÁNH GIÁ HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG

KIỂM TOÁN NỘI BỘ NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI

ThS. CPA. Nguyễn Thị Lê Thanh

- HỌC VIỆN NGÂN HÀNG -


Bàn về chỉ tiêu đánh giá hiệu quả hoạt động kiểm toán nội bộ ngân hàng thương mại (Phần I)

Chỉ tiêu đánh giá hiệu quả hoạt động kiểm toán nội bộ của các ngân hàng thương mại

Việc đo lường và đánh giá hiệu quả đối với các hoạt động trong các doanh nghiệp nói chung và hiệu quả hoạt động KTNB trong NHTM nói riêng là rất cần thiết.

Rõ ràng hiệu quả hoạt động KTNB trong NHTM là một khái niệm tương đối vì nó được đánh giá bằng cách so sánh mục tiêu NHTM đặt ra khi thiết lập và duy trì KTNB (yếu tố đầu ra) đạt được và nguồn lực sử dụng cho KTNB (yếu tố đầu vào).

Yếu tố đầu vào của hoạt động KTNB là số lượng, chất lượng (trình độ) nhân sự làm công tác KTNB; chi phí dành cho bộ phận KTNB, bao gồm: Thu nhập của cán bộ kiểm toán, chi phí đào tạo,…; chi phí áp dụng yếu tố khoa học công nghệ vào công tác KTNB: phần mềm KTNB, chi phí trang bị máy tính cho cán bộ kiểm toán. Yếu tố đầu ra của hoạt động KTNB trong NHTM mang tính chất vô hình (tính trung thực của thông tin tài chính; khả năng dự đoán để giảm thiểu rủi ro có thể xảy ra trong các hoạt động nghiệp vụ của ngân hàng - hoạt động tín dụng, hoạt động kế toán và ngân quỹ, hoạt động kinh doanh ngoại tệ,…; khả năng phát hiện kịp thời các vi phạm và kiến nghị xử lý phù hợp; hoạt động giám sát sau kiểm toán chặt chẽ, các vi phạm được chỉ ra đều được sửa chữa thích hợp;…). Do vậy, để đánh giá tính hiệu quả của hoạt động KTNB trong NHTM, điều quan trọng là nhằm vào kết quả việc thực hiện quy trình của các hoạt động nghiệp vụ, các vi phạm được phát hiện và sửa chữa,… hơn là đánh giá dựa vào kết quả bằng con số cụ thể.

Nhiệm vụ, mục tiêu cụ thể của bộ phận KTNB ở mỗi NHTM thường do chính NHTM thiết lập, thể hiện trong bản quy chế về KTNB, căn cứ vào đặc điểm hoạt động và những mục tiêu chung cần đạt tới. Bản quy chế rõ ràng, chi tiết, đầy đủ và phù hợp là cơ sở để tổ chức hoạt động kiểm toán, là căn cứ để phân bổ các nguồn lực thích hợp cho KTNB và đồng thời cũng là cơ sở để đánh giá kết quả của hoạt động này. Tuy nhiên, một thực tế là các NHTM không tự đề ra bản quy chế cụ thể hóa, phù hợp với mục tiêu phát triển và đặc điểm riêng có của NHTM, mà chỉ đơn thuần tiếp nhận những bản quy chế từ các quy định chung chung. Do đó, khi đánh giá mức độ hoàn thành nhiệm vụ của KTNB ở một NHTM nào đó, cũng cần đánh giá xem bản thân các quy định về nhiệm vụ, mục tiêu của KTNB tại ngân hàng đó có phù hợp hay không.

Để đánh giá KTNB có tiết kiệm các nguồn lực trong quá trình thực hiện công việc không, thông thường các NHTM xem xét về mức độ hoàn thành nhiệm vụ của KTNB và so sánh giữa chi phí cho KTNB giữa các ngân hàng với nhau. Tuy nhiên, đây thường là thông tin được bảo mật của các ngân hàng, không một NHTM nào công khai các số liệu này. Do đó, đánh giá hiệu quả của hoạt động KTNB bằng cách so sánh kết quả và chi phí dành cho KTNB giữa các ngân hàng với nhau là không thực hiện được.

Để đánh giá hiệu quả hoạt động KTNB trước hết phải xác định được thước đo đánh giá. Thước đo phải bảo đảm phục vụ tốt cho việc đánh giá đầu ra theo mục tiêu, chiến lược cũng như mối liên kết từ đầu vào đến đầu ra. Đối tượng đánh giá là mối quan hệ giữa yếu tố đầu vào và yếu tố đầu ra của hoạt động KTNB, như phân tích ở trên, rất phức tạp và khó đo lường được bằng giá trị cụ thể. Do đó, phần lớn các chỉ tiêu đánh giá là chỉ tiêu định tính.

Kết quả hoạt động (yếu tố đầu ra) thường được thực hiện thông qua các tiêu chí: số lượng, chất lượng, thời gian và chi phí.

· Thước đo số lượng: Phản ánh kết quả thông qua số lượng kết quả đầu ra, ví dụ: tổng số lượng các cuộc KTNB, số lượng các cuộc KTNB cho từng hoạt động nghiệp vụ,… Hoặc thể hiện phạm vi hoạt động của KTNB, số lượng các cuộc KTNB cho từng lĩnh vực kiểm toán: Kiểm toán tài chính, kiểm toán tuân thủ, kiểm toán hoạt động, và kiểm toán quản lí. Do tính phức tạp và đa dạng của kết quả đầu ra trong hoạt động KTNB tác động tới hoạt động kinh doanh chung của ngân hàng nên thước đo số lượng không thể phản ánh toàn bộ kết quả thu được nên cần kết hợp với các thước đo còn lại;

· Thước đo chất lượng: Phản ánh chất lượng của hoạt động KTNB, thể hiện ở chất lượng báo cáo KTNB và giai đoạn giám sát sau kiểm toán. Những tiêu chí để đo lường chất lượng báo cáo KTNB là: tính chính xác, tính khách quan, tính xây dựng, yêu cầu rõ ràng, cô đọng, đầy đủ và kịp thời. Báo cáo KTNB phải tập trung vào đúng vấn đề, các sai phạm được phát hiện và hướng xử lý đối với các sai phạm. Chất lượng của giai đoạn giám sát sau kiểm toán không chỉ thể hiện ở các văn bản, báo cáo thực hiện kiến nghị kiểm toán của đơn vị được kiểm toán, đòi hỏi phải thực hiện kiểm tra công tác khắc phục sai phạm thực tế tại đơn vị được kiểm toán.

Thước đo chất lượng chính là hệ thống chỉ tiêu định tính đánh giá trực tiếp hiệu quả hoạt động KTNB trong NHTM. Để đánh giá được chất lượng hoạt động KTNB, trong trường hợp này, giả sử nguồn lực (yếu tố đầu vào) cho hoạt động KTNB là không đổi. Điều này thể hiện ở: Khả năng phát hiện ra sai phạm trong các hoạt động nghiệp vụ của ngân hàng; Khả năng cảnh báo đối với hệ thống quản lý để từ đó đưa ra các chính sách điều hành hoạt động kinh doanh để giảm tỷ lệ nợ xấu, giảm các hành vi vi phạm (như tham nhũng, lừa đảo, chiếm đoạt tài sản,…), giảm rủi ro tác nghiệp,…; Kết quả của hoạt động KTNB giúp Hội đồng quản trị đánh giá đúng thực chất tình hình hoạt động của ngân hàng để đưa ra quyết định kinh doanh phù hợp; Hiệu quả hoạt động KTNB là cơ sở so sánh với kết quả kiểm toán độc lập để điều chỉnh hoạt động ngân hàng. Trên cơ sở phát hiện các sai phạm, KTNB đưa ra các kiến nghị để sửa chữa sai phạm, hiệu quả hoạt động KTNB còn thể hiện ở giai đoạn giám sát sau kiểm toán - xem xét việc thực hiện các kiến nghị kiểm toán. Hơn nữa, hiệu quả KTNB thể hiện ở giá trị các kiến nghị với Đại hội cổ đông để tổ chức lại Hội đồng quản trị, kiến nghị với Hội đồng quản trị để tổ chức bộ máy điều hành hoạt động.

Hiệu quả hoạt động KTNB tại các NHTM đã thể hiện được đầy đủ hai vai trò là xác nhận và tư vấn hay chưa. Trong đó xác nhận là chức năng chủ yếu của KTNB, đối tượng của KTNB đã thực hiện được những lĩnh vực nào: hệ thống KSNB, các thủ tục quản lí rủi ro, hệ thống thông tin tài chính, kiểm tra các giao dịch và các thủ tục, kiểm tra tính tuân thủ với pháp luật và quy định của các cơ quan quản lí, và các cuộc điều tra đặc biệt khác. Với tư vấn, hoạt động KTNB đã thực hiện được những lĩnh vực tư vấn gì và trong phạm vi nào, xem xét KTNB khi thực hiện vai trò tư vấn có bị ảnh hưởng tới tính độc lập không. Hiệu quả hoạt động KTNB ảnh hưởng nhiều bởi các biện pháp, các chính sách đảm bảo cho hoạt động này, do đó một phần hiệu quả tư vấn của KTNB thể hiện đã xây dựng được các quy định liên quan đến hoạt động KTNB hay chưa: Ban hành điều lệ kiểm toán; thành lập Uỷ ban kiểm toán trực thuộc trực tiếp Hội đồng quản trị; thúc đẩy quan hệ thường xuyên giữa KTNB và kiểm toán độc lập; ban hành những hướng dẫn đối với hoạt động KTNB; xem xét lại và thông qua kế hoạch kiểm toán hàng năm của KTNB.

· Thước đo thời gian: Thước đo thời gian cung cấp các thông số về thời gian thực hiện, hoàn tất quy trình KTNB trong NHTM, kể cả kiểm toán tổng thể và kiểm toán từng mảng nghiệp vụ. Mặc dù chất lượng là quan trọng nhưng nếu thực hiện hoạt động KTNB tại một đơn vị trong thời gian quá dài thì số lượng các đơn vị được kiểm toán là ít, hoặc đòi hỏi số lượng kiểm toán viên rất lớn, điều này là nhân tố làm giảm hiệu quả hoạt động KTNB.

· Thước đo chi phí: Thông tin chi phí có vai trò quan trọng trong việc đánh giá, so sánh kết quả hoạt động KTNB đạt được với kế hoạch, với kỳ trước và với mức trung bình chung của ngành.

Như vậy, chỉ tiêu đánh giá hiệu quả hoạt động KTNB trong NHTM mang tính chất vô hình, thể hiện yếu tố định tính hơn là định lượng.

Có thể đưa ra một số chỉ tiêu định lượng để đánh giá gián tiếp hiệu quả hoạt động KTNB. Tuy nhiên khi sử dụng các chỉ tiêu định lượng này, cần thiết phải kết hợp với các chỉ tiêu định tính.

o Hệ số đánh giá số lượt các cuộc kiểm toán hoạt động tín dụng ảnh hưởng tới tỉ lệ nợ xấu của NHTM (H1), phản ánh khi tăng (giảm) 1% số lượt các cuộc kiểm toán hoạt động tín dụng làm tăng (giảm) bao nhiêu % tỉ lệ nợ xấu của ngân hàng.

H1

DN

:

DN

N0

x0

Trong đó: DN: Tỉ lệ nợ xấu tăng (giảm) = Nl - N0

Nl: Tỉ lệ nợ xấu kỳ báo cáo; N0: Tỉ lệ nợ xấu kỳ gốc

Dx : Số lượt các cuộc kiểm tra hoạt động tín dụng tăng (giảm)

Dx = x1 - x0

xl: Số lượt các cuộc kiểm tra hoạt động tín dụng kỳ báo cáo

x0: Số lượt các cuộc kiểm tra hoạt động tín dụng kỳ gốc.

o Hệ số đánh giá số lượng cán bộ KTNB có trình độ ảnh hưởng tới tổng số lượt các cuộc KTNB (H2­), phản ánh khi tăng (giảm) 1% số lượng cán bộ KTNB có trình độ làm tăng (giảm) bao nhiêu % tổng số cuộc KTNB của ngân hàng.

H2

DT

:

Dx

T0

x0

Trong đó: Dx: Số lượng cán bộ KTNB có trình độ đại học trở lên tăng (giảm)

Dx = xl - x0

xl, x0: Số lượng cán bộ KTNB có trình độ kỳ báo cáo; kỳ gốc

DT : Tổng số lượt các cuộc kiểm KTNB tăng (giảm)

DT = T1 - T0

Tl, T0: Tổng số lượt các cuộc KTNB kỳ báo cáo, kỳ gốc.

Nhân tố ảnh hưởng tới hiệu quả hoạt động kiểm toán nội bộ của ngân hàng thương mại

* Thứ nhất, nhân tố chủ quan

Các nhân tố chủ quan thuộc về bản thân NHTM có ảnh hưởng tới hiệu quả hoạt động KTNB gồm các nhân tố ảnh hưởng đến việc thiết kế bộ phận KTNB từ mô hình tổ chức KTNB; số lượng, chất lượng nhân viên kiểm toán; phương pháp kiểm toán áp dụng; quy trình kiểm toán; yếu tố khoa học công nghệ áp dụng trong KTNB; công tác giám sát sau kiểm toán; …

· Mô hình tổ chức KTNB: Một mô hình tổ chức KTNB tốt, không cồng kềnh, xác định KTNB trực thuộc cấp nào: Ban kiểm soát thuộc Hội đồng quản trị, Ban kiểm soát thuộc Đại hội cổ đông hay KTNB trực thuộc trực tiếp Hội đồng quản trị có ảnh hưởng rất lớn đến hiệu quả hoạt động KTNB, đặc biệt là khi KTNB tác nghiệp và thực hiện công việc giám sát sau kiểm toán.

· Đội ngũ cán bộ KTNB: Ảnh hưởng bởi đội ngũ cán bộ làm công tác KTNB thể hiện về số lượng, chất lượng và mức độ đảm bảo các nguyên tắc làm nền tảng cho hoạt động của KTNB, bao gồm: tính liên tục, tính độc lập và tính chuyên nghiệp. Số lượng cán bộ KTNB nếu quá ít không đảm bảo kiểm tra được toàn bộ các đơn vị trong NHTM, hoặc nếu kiểm tra chất lượng không được đảm bảo. Ngược lại, nếu số lượng cán bộ KTNB quá nhiều thì chi phí lớn (gồm cả chi phí tiền lương, thưởng, phụ cấp và chi phí đào tạo), công tác kiểm toán thậm chí bị chồng chéo. Do đó cần thiết NHTM phải có số lượng cán bộ KTNB phù hợp với quy mô và đặc điểm hoạt động của ngân hàng.

Hoạt động KTNB đòi hỏi cán bộ thực hiện phải có một trình độ tương xứng, phải am hiểu về các hoạt động kinh doanh của ngân hàng và các sản phẩm dịch vụ mới cũng như sử dụng thành thạo hệ thống ngân hàng hiện đại để phục vụ yêu cầu công việc.

Tính độc lập của cán bộ KTNB cũng rất quan trọng, nếu vi phạm sẽ ảnh hưởng đến kết quả kiểm toán, điều này làm ảnh hưởng kéo theo tới kết quả của một loạt các hoạt động khác trong ngân hàng. Do đó cần thiết phải có một mô hình tổ chức KTNB và các chính sách ưu đãi đối với kiểm toán viên nội bộ để tiêu chuẩn tính độc lập được đảm bảo một cách cao nhất.

· Phương pháp kiểm toán: Cần thiết áp dụng kết hợp cả hai phương pháp kiểm toán: hệ thống và cơ bản đảm bảo giảm thiểu được thời gian thực hiện kiểm toán và kết quả thu được, mức độ phát hiện sai phạm cao hơn. Phương pháp kiểm toán phải được áp dụng một cách có hệ thống, cho toàn ngân hàng và cho từng hoạt động nghiệp vụ.

· Quy trình KTNB: Quy trình KTNB cần thiết được xây dựng, cập nhật thường xuyên, có tính hệ thống và phải được áp dụng thống nhất đối với tất cả các đơn vị trong ngân hàng để KTNB thực hiện được đúng mục tiêu đề ra của hoạt động.

· Công nghệ thông tin: Để tiết kiệm thời gian, chi phí, số lượng nhân viên KTNB, đòi hỏi có phần mềm kiểm toán riêng. Hệ thống này nếu có sẽ hỗ trợ và nâng cao chất lượng KTNB, giúp tổng hợp toàn hệ thống, kết xuất dữ liệu, xử lý và phân tích dữ liệu trên máy,…

* Thứ hai, nhân tố khách quan

Để hoạt động KTNB có hiệu quả, nhân tố khách quan ảnh hưởng lớn nhất là hệ thống văn bản pháp lý quy định và hướng dẫn đối với công tác KTNB, từ xây dựng mô hình tổ chức; tuyển chọn nhân sự; thiết kế quy trình kiểm toán đối với từng hoạt động nghiệp vụ; yêu cầu đối với kiểm toán viên nội bộ; hướng dẫn thiết kế và áp dụng công nghệ thông tin vào hoạt động KTNB;… của Nhà nước và của ngành, cũng như của bản thân từng NHTM.

Như vậy, để KTNB trong NHTM hoạt động đúng mục đích, yêu cầu đặt ra khi thiết lập bộ phận KTNB của Hội đồng quản trị, để nâng cao hiệu quả hoạt động của KTNB, cần thiết các NHTM phải xây dựng được một hệ thống các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả hoạt động KTNB (bao gồm chỉ tiêu định lượng và chỉ tiêu định tính). Hiệu quả hoạt động KTNB trong NHTM cần được đánh giá thường xuyên, định kỳ theo hệ thống chỉ tiêu đã được xây dựng để phân tích nguyên nhân ảnh hưởng làm giảm hiệu quả hoạt động KTNB, từ đó đưa ra các biện pháp khắc phục để hoạt động KTNB ngày càng hiệu quả, hoạt động kinh doanh chung của toàn ngân hàng ngày càng phát triển ổn định và bền vững./.

- Hết -
Nguồn: www.vacpa.org.vn

Popular Posts