Sunday 20 March 2011

Bàn về chỉ tiêu đánh giá hiệu quả hoạt động kiểm toán nội bộ ngân hàng thương mại (Phần I)

BÀN VỀ CHỈ TIÊU ĐÁNH GIÁ HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG

KIỂM TOÁN NỘI BỘ NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI

ThS. CPA. Nguyễn Thị Lê Thanh

- HỌC VIỆN NGÂN HÀNG -

Bàn về chỉ tiêu đánh giá hiệu quả hoạt động kiểm toán nội bộ ngân hàng thương mại (Phần II)


Ngân hàng thương mại - với chức năng trung gian tài chính - ngày càng thể hiện vai trò quan trọng trong nền kinh tế, đặc biệt trong điều kiện kinh tế Việt Nam đang hội nhập sâu với khu vực và thế giới, cùng với sự phát triển mạnh mẽ của thị trường chứng khoán, hoạt động của các NHTM ngày càng đa dạng, phức tạp với rủi ro tiềm tàng khá cao. Điều này đòi hỏi phải có các biện pháp kiểm soát chặt chẽ hoạt động của hệ thống NHTM. Biện pháp cụ thể mà hu hết các ngân hàng đu xây dng tổ chức thực hiện là hệ thống kiểm soát nội bộ (KSNB) với sự có mặt không thể thiếu của kiểm toán nội bộ (KTNB).

Tuy nhiên, hoạt động KTNB của các NHTM Vit Nam hin nay đang còn tồn tại một số bất cp, hn chế. Điu y sẽ đt ra tch thức lớn cho các ngân hàng khi Việt Nam tng bước m của thị trưng tài chính. Cần thiết các NHTM phải xây dựng được cho mình một hệ thống các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả thực sự của hoạt động KTNB để đề ra các biện pháp cải thiện tổ chức hoạt động của bộ phận này, góp phần vào sự phát triển bền vững chung của hoạt động kinh doanh ngân hàng.

Trước hết, cần làm rõ quan niệm về hiệu quả hoạt động kiểm toán nội bộ

Hiệu quả được hiểu là việc sử dụng tối thiểu các nguồn lực nhưng vẫn đảm bảo đạt được các mục tiêu đặt ra. Điều đó có nghĩa là kết quả tạo ra nhiều hơn so với mục tiêu, mục đích hoặc kế hoạch nhưng vẫn sử dụng đúng nguồn lực đã được xác định, hoặc kết quả tạo ra đúng như mục tiêu, mục đích hoặc kế hoạch nhưng nguồn lực sử dụng ít hơn.

Như vậy, tính hiệu quả liên quan mật thiết giữa yếu tố đầu vào (nguồn lực sử dụng) và kết quả đầu ra (mục đích của hoạt động). Một hoạt động được coi là hiệu quả nếu nó đảm bảo được đồng thời 2 điều kiện: (1) Đạt được mục tiêu đề ra; và (2) Tiết kiệm các nguồn lực (thời gian, nhân lực và chi phí).

Hiệu quả hoạt động KTNB là đảm bảo đạt được các mục tiêu của NHTM đặt ra khi thiết lập và duy trì bộ phận KTNB đồng thời tối thiểu hóa nguồn lực sử dụng cho KTNB. Cụ thể hiệu quả của hoạt động KTNB thể hiện ở mức độ đạt được mục tiêu của các nhiệm vụ và tiết kiệm các nguồn lực mà nó sử dụng trong quá trình thực hiện công việc.

Nói đến hiệu quả hoạt động KTNB là phải xem xét hai khía cạnh: nguồn lực đầu vào và kết quả đầu ra của KTNB. Vậy tại sao cần thiết phải nâng cao hiệu quả hoạt động KTNB của các NHTM? Có ba nguyên nhân chính sau:

Nguyên nhân thứ nhất là do vai trò quan trọng của ngân hàng thương mại đối với nền kinh tế

NHTM là một trong những tổ chức tín dụng lớn nhất và có vị trí quan trọng nhất trong hệ thống ngân hàng trung gian của các nước, nó đóng vai trò rất quan trọng trong việc làm cầu nối giữa huy động vốn và cho vay vốn trong nền kinh tế.

NHTM với các hoạt động cơ bản là huy động vốn, tín dụng, dịch vụ thanh toán và ngân quỹ,... đã thực hiện được các chức năng: trung gian tài chính, tạo phương tiện thanh toán, trung gian thanh toán. Với chức năng trung gian tài chính - NHTM là một tổ chức với hoạt động chủ yếu là chuyển tiết kiệm thành đầu tư, đòi hỏi sự tiếp xúc với hai chủ thể trong nền kinh tế là các đối tượng tạm thời thâm hụt chi tiêu, bao gồm cả chi tiêu cho tiêu dùng và cho đầu tư, đây là đối tượng cần bổ sung vốn; và các đối tượng thặng dư trong chi tiêu, thu nhập của nhóm đối tượng này lớn hơn nhu cầu chi tiêu, có tiền tiết kiệm. Với chức năng tạo phương tiện thanh toán - Trong điều kiện phát triển thanh toán qua NHTM phát sinh quan điểm hiện đại về phương tiện thanh toán. Khi NHTM cho vay, số dư trên tài khoản tiền gửi thanh toán của khách hàng tăng lên, khách hàng có thể dùng để mua hàng hóa, dịch vụ. Do đó, bằng việc cho vay, các NHTM đã tạo ra phương tiện thanh toán. Với chức năng trung gian thanh toán - thay mặt khách hàng, NHTM thực hiện thanh toán giá trị hàng hóa và dịch vụ. Có nhiều hình thức để thực hiện chức năng trung gian thanh toán: Thanh toán bằng séc, ủy nhiệm chi, nhờ thu, hệ thống thẻ, mạng lưới thanh toán điện tử, kết nối các quỹ,… Chức năng trung gian thanh toán đặc biệt quan trọng khi khách hàng phát sinh những hoạt động xuyên biên giới, hội nhập kinh tế toàn cầu.

Hệ thống ngân hàng với các chức năng của nó đã góp phần giúp các hoạt động trong nền kinh tế vận hành trôi chảy và an toàn. Một nền kinh tế không thể phát triển nếu không có hệ thống NHTM hiện đại, hoạt động an toàn - điều này chỉ có thể đạt được khi NHTM có bộ phận KTNB hoạt động hiệu quả.

Nguyên nhân thứ hai là do cấu trúc sở hữu của ngân hàng thương mại ảnh hưởng tới kiểm toán nội bộ

NHTM là một loại hình doanh nghiệp đặc biệt trong nền kinh tế, theo đó NHTM cũng bao gồm các hình thức sở hữu như các doanh nghiệp khác:

  • NHTM Nhà nước: là NHTM do Nhà nước sở hữu 100% vốn;

· NHTM 100% vốn nước ngoài: là NHTM được thành lập bởi một hoặc một số ngân hàng nước ngoài và không có sự tham gia góp vốn của phía Việt Nam;

· NHTM liên doanh: là NHTM được thành lập bởi một hoặc một số ngân hàng nước ngoài và ngân hàng trong nước. NHTM liên doanh là sự kết hợp giữa yếu tố nội và yếu tố ngoại;

· NHTM cổ phần: là NHTM hoạt động trên cơ sở góp vốn của các cổ đông. Đây là loại hình NHTM có nhiều ưu điểm, phổ biến trên thế giới và đang có xu hướng được đẩy mạnh.

Bộ phận KTNB là biểu hiện của sự tách biệt giữa Hội đồng quản trị và bộ máy điều hành. Đặc biệt khi các NHTM cổ phần ra đời, thị trường chứng khoán phát triển, nảy sinh mâu thuẫn về lợi ích giữa các cổ đông và người điều hành hoạt động kinh doanh của ngân hàng (ban giám đốc), từ đó xuất hiện nhu cầu kiểm tra của các cổ đông để đảm bảo hoạt động kinh doanh ngân hàng đi đúng mục đích đề ra của chủ sở hữu.

Các NHTM Nhà nước đang có xu hướng chuyển đổi mô hình thành NHTM cổ phần. Trong xu thế phát triển và chuyển đổi đòi hỏi các NHTM phải tổ chức một bộ phận KTNB hoạt động hiệu quả, giải quyết được mẫu thuẫn giữa chủ sở hữu và ban điều hành hoạt động kinh doanh của ngân hàng.

Nguyên nhân thứ ba: Do đặc điểm của ngân hàng thương mại tác động tới hoạt động kiểm toán nội bộ

Là một loại hình doanh nghiệp đặc biệt chuyên cung cấp các dịch vụ tài chính, hoạt động kinh doanh NHTM có rất nhiều những khác biệt so với các loại hình doanh nghiệp khác trong nền kinh tế. Những đặc điểm này sẽ ảnh hưởng tới hoạt động KTNB của NHTM.

  • Đặc điểm về tổ chức:

Cơ cấu tổ chức của NHTM thường phức tạp, nhiều cấp bậc, thường với một hội sở chính, dưới nó là hệ thống các sở/phòng giao dịch, chi nhánh, văn phòng đại diện và các công ty trực thuộc (nếu có). Với đặc điểm mạng lưới chi nhánh, sở/phòng giao dịch lớn và phân tán rộng về mặt địa lý kéo theo sự phân quyền lớn và sự phân tán các chức năng trong ngân hàng như chức năng kế toán, chức năng kiểm toán, kiểm soát và chức năng quản lý,... Hậu quả của đặc điểm tổ chức này là rất khó để duy trì được một hệ thống kế toán và những thông lệ hoạt động thống nhất trong toàn tổ chức, đặc biệt đối với các tổ chức có quy mô lớn.

  • Đặc điểm sản phẩm, dịch vụ ngân hàng cung cấp:

o Tính vô hình: Tính vô hình là đặc điểm chính của sản phẩm, dịch vụ ngân hàng, đó cũng là đặc điểm chính của các ngành cung cấp dịch vụ - điểm phân biệt rõ ràng nhất với sản phẩm của các ngành sản xuất vật chất trong nền kinh tế. Sản phẩm ngân hàng thường được thực hiện theo một quy trình, nó không phải là một vật thể rõ ràng để khách hàng có thể lựa chọn, so sánh để sử dụng. Khách hàng chỉ có thể kiểm tra và xác định chất lượng sản phẩm dịch vụ ngân hàng trong và thậm chí sau khi sử dụng.

o Tính thống nhất: Cũng như các sản phẩm của các ngành cung cấp dịch vụ khác, sản phẩm dịch vụ ngân hàng thể hiện tính thống nhất - không thể tách biệt. Quá trình cung cấp và quá trình tiêu dùng sản phẩm dịch vụ cùng song song thực hiện, đồng thời đòi hỏi có sự tham gia trực tiếp của khách hàng vào quá trình cung ứng sản phẩm dịch vụ. Mặt khác, quá trình cung ứng sản phẩm dịch vụ ngân hàng thường phải thực hiện theo quy trình nhất định, không thể tách biệt ra thành nhiều sản phẩm khác nhau, ví dụ, sản phẩm tín dụng bao gồm quy trình thẩm định, quy trình cho vay, quy trình giải ngân,... Đặc tính này làm cho ngân hàng không có sản phẩm dở dang, dự trữ lưu kho.

o Tính phát triển và đổi mới: Các ngân hàng liên tục phát triển những sản phẩm mới, những công cụ tài chính mới do sức ép của cạnh tranh, tự do hoá tài chính, sự phát triển của khoa học công nghệ. Những sản phẩm này thường có mức rủi ro cao trong khi sự phát triển của chúng thường đi trước những nguyên tắc kế toán, kiểm toán, kiểm soát cũng như những quy tắc giám sát khác. Do đó hoạt động phát triển sản phẩm mới có thể nơi tiềm ẩn nhiều rủi ro và khả năng có sai phạm ảnh hưởng trọng yếu tình hình tài chính của ngân hàng.

· Đặc điểm về rủi ro trong ngân hàng:

Hoạt động kinh doanh ngân hàng có những loại rủi ro đặc thù ít xuất hiện trong những ngành kinh doanh khác. ngân hàng là trung gian tài chính, là cầu nối dẫn vốn từ nơi dư thừa đến nơi thiếu hụt, với quy mô, thời hạn của từng khoản huy động và từng khoản vay rất khác biệt. Do vậy, hoạt động ngân hàng tiềm ẩn rất nhiều rủi ro (rủi ro tín dụng, rủi ro thanh khoản, rủi ro thị trường, rủi ro hoạt động,...) song lợi nhuận ngân hàng cũng đến từ việc chấp nhận các rủi ro này.

o Rủi ro tín dụng: Rủi ro khi một khách hàng hay một đối tác không có khả năng hoàn thành những nghĩa vụ của nó một cách đầy đủ. Cụ thể, rủi ro tín dụng là rủi ro xuất hiện khi người đi vay không có khả năng hoặc không có ý định trả nợ theo đúng các điều khoản trên hợp đồng tín dụng.

o Rủi ro thanh khoản: Rủi ro xuất hiện khi ngân hàng không thể tìm được nguồn vốn với chi phí và quy mô hợp lý tại đúng thời điểm có nhu cầu.

o Rủi ro thị trường (rủi ro giá cả): Rủi ro xuất hiện khi giá trị của tài sản hoặc các nghĩa vụ nợ thay đổi do những biến động của các yếu tố thị trường. Rủi ro thị trường bao gồm ba loại rủi ro sau:

ü Rủi ro lãi suất: Rủi ro xuất hiện khi mức lãi suất liên quan đến các tài sản hoặc quyền được nhận tài sản trong tương lai không tương đương với lãi suất của các nghĩa vụ hay các tài sản nợ.

ü Rủi ro tỷ giá: Rủi ro xuất hiện khi có sự không cân đối giữa những tài sản, quyền với những nghĩa vụ, khoản nợ ghi bằng cùng một đồng tiền.

ü Rủi ro giá chứng khoán: Rủi ro xuất hiện do những thay đổi trong giá cả của một hoặc một số loại chứng khoán đơn lẻ.

o Rủi ro hoạt động: Rủi ro xuất hiện khi hệ thống kế toán của ngân hàng không đủ khả năng xử lý các giao dịch kịp thời và chính xác. Loại rủi ro này có thể làm trầm trọng thêm các loại rủi ro khác.

Những rủi ro trên thường xuất hiện ở nhiều loại sản phẩm dịch vụ ngân hàng. Chúng có đặc thù là mang tính gián tiếp, tức là xuất phát từ những biến động của nền kinh tế nói chung hoặc từ rủi ro của khách hàng chuyển thành rủi ro của ngân hàng khi khách hàng không thực hiện được nghĩa vụ đã cam kết với ngân hàng. Phần lớn các rủi ro này đều có thể tích luỹ rất nhanh, nếu không được ghi nhận, giám sát liên tục kịp thời, đầy đủ chúng có thể đẩy ngân hàng sụp đổ nhanh chóng. Vì thế xu hướng hiện nay quản trị rủi ro đang có một vai trò quan trọng trong kinh doanh ngân hàng. Để quản trị và kiểm soát tốt rủi ro, ngân hàng phải thiết lập và duy trì thường xuyên một hệ thống ghi nhận và giám sát rủi ro hiệu quả, đồng thời các nhà quản lý ngân hàng phải có kiến thức, kỹ năng cần thiết phù hợp.

· Đặc điểm khác: Ngoài các đặc điểm chủ yếu trên, một số đặc điểm khác của hoạt động ngân hàng tác động đến KTNB:

o Các ngân hàng tham gia vào một khối lượng các giao dịch lớn và đa dạng cả về số lượng, giá trị. Phần lớn các giao dịch này đòi hỏi phải được xử lý kịp thời nhanh chóng, chính xác và thường có ảnh hưởng trực tiếp đến số liệu trên báo cáo tài chính của ngân hàng. Vì vậy, ngân hàng cần phải có hệ thống kế toán và KSNB đủ mạnh để thực hiện và kiểm soát dựa trên cơ sở ứng dụng rộng rãi công nghệ thông tin. Hệ thống thông tin trong các ngân hàng thường rất phức tạp với khối lượng lớn các giao dịch được xử lý tự động, trực tuyến và theo thời gian thực.

o Các ngân hàng thường quản lý và giám sát một khối lượng tài sản lớn trong đó chủ yếu là những tài sản tài chính, các khoản mục tiền tệ bao gồm tiền mặt và giấy tờ có giá. Các loại tài sản này thường đòi hỏi phải có những biện pháp bảo vệ an ninh rất chặt chẽ trong bảo quản cất giữ, vận chuyển cũng như chuyển giao, đồng thời nó cũng biến các ngân hàng thành nơi rất nhạy cảm với các vấn đề về gian lận, vượt thẩm quyền. Vì vậy các ngân hàng thường phải thiết lập một hệ thống những thủ tục hoạt động và thủ tục kế toán rõ ràng, chặt chẽ và chuẩn tắc; hệ thống hạn mức chính xác cho quyền hạn của mỗi cá nhân; và hệ thống KSNB nghiêm khắc chặt chẽ.

o Hệ thống ngân hàng là một trong những lĩnh vực bị quản lý chặt chẽ nhất trong nền kinh tế bởi các cơ quan nhà nước. Lý do là vì ngân hàng quản lý một số lượng lớn các tài sản của những người gửi tiền trong khi hoạt động kinh doanh ngân hàng tiềm ẩn rất nhiều rủi ro. Hơn nữa rủi ro trong ngân hàng có tính dây chuyền, một ngân hàng sụp đổ có thể kéo theo khủng hoảng cho toàn hệ thống và để lại những hậu quả nặng nề cả về kinh tế và xã hội. Chính vì thế, tại hầu hết các quốc gia đều đặt ra rất nhiều những quy chế đặc biệt ngăn chặn các ngân hàng chấp nhận rủi ro qua mức hay có những hành vi kinh doanh gian lận nhằm bảo vệ quyền lợi của người gửi tiền cũng như đảm bảo sự an toàn lành mạnh của nền kinh tế. Những quy định, quy chế này sẽ có những tác động đáng kể đến những chuẩn mực, thông lệ kế toán và kiểm toán trong ngành đặc biệt này.

Ngân hàng - một loại hình doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ đặc biệt, với những đặc điểm riêng có, luôn tiềm ẩn rủi ro với liền với từng mặt hoạt động của ngân hàng đòi hỏi phải có một hệ thống KSNB chặt chẽ với bộ phận KTNB hoạt động hiệu quả để giúp ngân hàng lường trước những rủi ro có thể gặp phải, đánh giá rủi ro và đưa ra những tư vấn để xử lý những rủi ro đó.

Từ những phân tích trên đây, sự phát triển của hệ thống NHTM có vai trò quyết định tới sự phát triển ổn định của nền kinh tế quốc dân. Để các hoạt động kinh doanh của NHTM có hiệu quả, đòi hỏi phải có một hệ thống KSNB chặt chẽ với các chức năng hoạt động. Để thiết lập được một hệ thống KSNB chặt chẽ và hoạt động tốt trong thực tế, cần thiết phải có một bộ phận KTNB với mô hình tổ chức phù hợp với đặc thù từng NHTM, một đội ngũ kiểm toán viên nội bộ có trình độ, năng lực chuyên môn và kinh nghiệm làm việc, đòi hỏi phải có một hệ thống phần mềm trợ giúp hoạt động KTNB, một quy trình KTNB chi tiết với phương pháp KTNB cụ thể. NHTM phải tự xây dựng một bộ phận KTNB, tạo ra cho bộ phận KTNB có những công cụ và sức mạnh để kiểm tra hoạt động của hệ thống KSNB, phát hiện sai phạm, đưa ra khuyến nghị sửa chữa và giám sát sau kiểm toán chặt chẽ, để hoạt động KTNB trong NHTM thực sự hiệu quả, không chỉ là hình thức và bị hệ thống KSNB lấn át, bao trùm.

Còn nữa ...

Nguồn www.vacpa.org.vn

No comments:

Post a Comment

Popular Posts