Wednesday 30 November 2011

Từ 1/1/2012, tăng mức đóng BHXH thêm 2%

Tỷ lệ đóng Bảo hiểm xã hội (BHXH) sẽ là 24% mức tiền lương, tiền công tháng đóng BHXH của người lao động, tăng 2% so với hiện nay.
Từ ngày 1/1/2012, tỷ lệ đóng Bảo hiểm xã hội (BHXH) sẽ là 24% mức tiền lương, tiền công tháng đóng BHXH của người lao động, tăng 2% so với hiện nay. Trong đó, người sử dụng lao động đóng 17% và người lao động đóng 7% BHXH.
Cụ thể, theo quy định của Luật Bảo hiểm xã hội, Nghị định ngày 22/12/2006 của Chính phủ hướng dẫn một số điều của Luật Bảo hiểm xã hội về bảo hiểm xã hội bắt buộc, người tham gia BHXH bắt buộc thực hiện mức đóng BHXH như sau: Người lao động đóng bằng 7% mức tiền lương, tiền công làm căn cứ đóng BHXH (hiện nay là 6%); người sử dụng lao động đóng bằng 17% (hiện nay là 16%).

Tổng mức đóng góp vào quỹ BHXH bắt buộc của cả người lao động và người sử dụng lao động là 24% (trong đó: 3% đóng góp vào quỹ ốm đau, thai sản; 1% vào quỹ tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp và 20% vào quỹ hưu trí, tử tuất).

Riêng đối với đối tượng hạ sĩ quan, binh sĩ quân đội nhân dân và hạ sĩ quan, chiến sĩ công an nhân dân phục vụ có thời hạn, người sử dụng lao động đóng BHXH cho nhóm này bằng 21% mức lương tối thiểu chung (trong đó: 1% vào quỹ tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp; 20% vào quỹ hưu trí, tử tuất).

Người tham gia BHXH tự nguyện đóng góp bằng 20% mức thu nhập người lao động lựa chọn đóng BHXH (hiện nay là 18%)./.

Theo LĐ

Tuesday 29 November 2011

Cần đặt yêu cầu cao đối với kiểm toán viên

CẦN ĐẶT YÊU CẦU CAO

ĐỐI VỚI KIỂM TOÁN VIÊN

Ngày 1/1/2012, Luật Kiểm toán độc lập chính thức có hiệu lực, các cơ quan quản lý đang trong quá trình hoàn thiện các văn bản hướng dẫn thi hành Luật. Trước nhiều vụ gian lận BCTC của các CTNY gần đây, gây mất niềm tin với ngành kế toán, kiểm toán Việt Nam. Báo DTCK xin trích đăng một số ý kiến cảu bà Rachel Chee, Hội viên ACCA, Giám đốc nghiệp vụ của Viện kế toán công chứng Malaysia chia sẻ kinh nghiệm của ngành kiểm toán Malaysia về việc quản lý hội viên (toàn bộ bài viết được đang tải trên www.tinnhanhchungkhoan.vn).

Đ

ể trở thành một kế toán viên công chứng ở Malaysia, điều kiện quy định hết sức chặt chẽ, đòi hỏi phải hoàn thành bằng kế toán ở Malaysia được công nhân theo Điều lệ kế toán; được tích lũy 3 năm kinh nghiệm làm việc liên quan do Viện Kế toán công chứng đánh giá; hoàn thành một bằng cấp nước ngoài được chấp thuận bởi MIA; vượt qua kỳ thi sát hạch của MIA; đạt được tư cách thành viên của một cơ quan kế toán chuyên nghiệp được công nhận theo Điều lệ kế toán.

Để trở thành một kiểm toán viên, bạn phải có kinh nghiệm kiểm toán 3 năm liên tục trước khi đăng ký; hoàn thành chương trình hành nghề công; tuân thủ theo các yêu cầu của MIA; có chứng chỉ hành nghề do MIA phát hành; vượt qua cuộc phỏng vấn của Ủy ban cấp bằng kiểm toán viên.

Khi được hội đồng MIA chấp thuận, người có chứng chỉ phải bắt đầu hành nghề trong vòng 6 tháng (đối với người mới) hoặc 3 tháng (nếu gia nhập vào một công ty hiện tại) kể từ ngày phát hành chứng chỉ, nếu không chứng chỉ sẽ bị hủy bỏ. Kiểm toán viên phải tham gia hành nghề công toàn thời gian; phải có bảo hiểm trách nhiệm ở mức tối thiểu 100.000 RM khi bắt đầu hành nghề. Việc cung cấp các dịch vụ kiểm toán, thuế và phá sản là các dịch vụ theo luật định tại Malaysia và yêu cầu phải có giấy phép do cơ quan Chính phủ ban hành.

Một điểm khác với Việt Nam là kiểm toán viên phải trải qua vòng phỏng vấn của Ủy ban cấp bằng kiểm toán viên (Ủy ban này do Văn phòng Tổng kế toán thành lập), nhằm đảm bảo các ứng viên được cấp bằng là xứng đáng và có năng lực. Ủy ban bao gồm các đại diện từ Văn phòng Tổng kế toán, UBCK Malaysia, Ngân hàng trung ương Malaysia, ủy ban Các công ty của Malaysia và Viện Kế toán công chứng Malaysia. Các ứng viên sẽ được kiểm tra kiến thức toàn diện, gồm: các quy định và nguyên tắc liên quan đến thị trường vốn và chứng khoán, các quy định liên quan đến ngân hàng, bảo hiểm và các ngành liên quan. Luật doanh nghiệp, các chuẩn mực kiểm toán, BCTC, quy định về thuế, chuẩn mực đạo đức nghề nghiệp kiểm toán. Năm 2009 tỷ lệ đỗ cả nước ghi nhận chỉ có 27%.

Tại Malaysia, quy định kiểm toán bắt buộc đối với toàn bộ các công ty thành lập theo Điều lệ công ty. Tại thời điểm cuối năm 2010, Malaysia có gần 920.000 công ty đang hoạt động, trong khi chỉ có 1.514 kiểm toán viên. Do vậy, Malaysia cũng phải áp dụng nhiều biện pháp để nâng cao tỷ lệ đỗ như xác định phạm vi kiếm thức phỏng vấn; thành lập diễn đàn cấp bằng kiểm toán viên để chia sẻ kinh nghiệm và để giảm thiểu khoảng cách kỳ vọng, đưa ra bảng câu hỏi tự đánh giá cho các ứng viên…

Cùng với khủng hoảng kinh tế toàn cầu, ngày càng nhiều doanh nghiệp đổ vỡ đã gây ra hoài nghi về độ tin cậy vào kiểm toán. Thực tế đòi hỏi yêu cầu một sự giám sát độc lập đối với các kiểm toán viên. Hội đồng Giám sát kiểm toán Malaysia được thành lập vào ngày 1/4/2010 dưới sự bảo trợ của UBCK có chứng năng tiếp nhận, quảy lý danh sách đăng ký kiểm toán viên các công ty đại chúng trên cơ sở gia hạn hàng năm và kiểm tra hoạt động hành nghề của họ. Khái niệm các công ty đại chúng ở Malaysia rất rộng, bao gồm các CTNY trên sàn chứng khoán, công ty bảo hiểm, ngân hàng, tổ chức tài chính, các công ty quản lý quỹ, kinh doanh chứng khoán, giao dịch hợp đồng tương lai…

BBT: Được biết: Văn phòng Tổng kế toán là tổ chức thuộc Bộ Tài chính, là cơ quan quản lý nhà nước, thực hiện chứng năng giám sát MIA.

MIA là tổ chức vừa có chứng năng của cơ quan quản lý nhà nước ( ban hành Chuẩn mực kế toán, kiểm toán; cấp chứng chỉ hành nghề kiểm toán…) vừa có chức năng của tổ chức Hội nghề nghiệp ( người hành nghề kế toán, kiểm toán phải là hội viên của MIA, tổ chức thi và cấp chứng chỉ hội viên…)

(Theo ĐTCK)
NGUON: VACPA

Khoản lỗ 1.800 tỷ và 'vở kịch' tại Petrolimex

Nếu như trong cùng một Petrolimex, người dân đã không thể hiểu được DN này thực chất lỗ hay lãi, thì trong cùng Bộ Công Thương, hình như lại tồn tại mâu thuẫn lớn khi vào tháng 9/2011, ông Tú thứ trưởng khẳng định Petrolimex lỗ; còn vào tháng 11/2011, ông Hoàng bộ trưởng lại khẳng định Petrolimex lãi.

Việc lỗ lãi trong kinh doanh của Petrolimex vẫn trong màn kịch nghi nghi hoặc hoặc

Không bất ngờ

Đã không có bất ngờ nào từ kết quả kiểm toán đối với Petrolimex của Deloitte mà Bộ trưởng Tài chính Vương Đình Huệ công bố trước Quốc hội vào ngày 25/11/2011.

Kết quả kiểm toán của Deloitte phản ánh trên báo cáo tài chính của Petrolimex qua các năm 2008, 2009, 2010 đều có lãi. Năm 2008, kinh doanh xăng dầu lãi 642 tỷ đồng, các hoạt động khác lãi 376 tỷ đồng, tổng hợp chung lãi 1.018 tỷ đồng. Sang năm 2009, kinh doanh xăng dầu lãi 2.660 tỷ đồng, các hoạt động khác lãi 557 tỷ đồng, tổng hợp chung lãi 3.217 tỷ đồng. Đến năm 2010, kinh doanh xăng dầu lỗ 172 tỷ đồng; các hoạt động khác lãi 486 tỷ đồng; tổng hợp chung lãi 81 tỷ đồng.

Riêng 6 tháng đầu năm 2011, Petrolimex (gồm văn phòng tổng công ty và 42 công ty công ty thành viên) kinh doanh xăng dầu lỗ 1.840 tỷ đồng.

Sau khi rà soát bước đầu về kết quả kinh doanh của Petrolimex, Bộ Tài chính "xét thấy nếu không có những nguyên nhân chủ quan như việc Petrolimex chi trả thù lao cho đại lý, tổng đại lý vượt chi phí kinh doanh định mức theo quy định và nguyên nhân khách quan là tỷ giá ngoại tệ tăng thì kinh doanh xăng dầu không lỗ lớn".

Kịch tính!

Nhưng điều bất ngờ là cũng trong cuộc họp Quốc hội trên, ngay sau phần trả lời của bộ trưởng Vương Đình Huệ, Bộ trưởng Bộ Công Thương Vũ Huy Hoàng lại đưa ra một thông tin khá khác biệt. Theo ông Hoàng, khi tiến hành cổ phần hóa, theo quy định Petrolimex phải công khai tất cả kết quả sản xuất kinh doanh. Theo đó, trong ba năm từ 2008-2010, tính về tổng thể, doanh nghiệp này có lãi, nhưng riêng kinh doanh xăng dầu bị lỗ. Tuy nhiên do doanh nghiệp này không giải thích cặn kẽ, chi tiết nên đã khiến dư luận hiểu nhầm rằng kinh doanh xăng dầu có lãi.
Bộ trưởng Công Thương Vũ Huy Hoàng đã "thuyết minh" rất chính xác về việc Petrolimex "có lãi" khi tiến hành cổ phần hóa. Sự chính xác này dựa trên bản cáo bạch của Petrolimex (bản phục vụ cho quá trình cổ phần hóa): năm 2008 doanh nghiệp này lãi hơn 913 tỷ đồng, năm 2009 lãi 2.880 tỷ đồng, năm 2010 lãi 81 tỷ đồng, và năm 2011 dự kiến lãi cả năm khoảng 598 tỷ đồng.

Tuy nhiên, bản cáo bạch và do đó cả "thuyết minh" của ông Hoàng lại chỉ có giá trị đến tháng... 7/2011, tức thời điểm đưa ra bản cáo bạch.

Còn vào gần cuối tháng 9/2011, trong một cuộc hội thảo về cơ chế kinh doanh xăng dầu, do Bộ Tài chính tổ chức tại Hà Nội, lãnh đạo của Petrolimex lại đưa ra những thông tin hoàn toàn trái ngược bản cáo bạch cổ phần hóa: từ năm 2006 đến nay, doanh nghiệp này đã lỗ mỗi năm hàng trăm tỷ đồng trong hoạt động kinh doanh xăng dầu, trong đó đỉnh điểm là năm 2008 lỗ đến 10.700 tỷ đồng. Riêng năm 2011, tính đến cuối tháng 8, doanh nghiệp này đã lỗ tới 1.800 tỷ đồng, ước tính 9 tháng lỗ khoảng 2.000 tỷ đồng.

Cần lưu ý rằng thời điểm cuộc hội thảo trên diễn ra vào lúc Bộ Tài chính chưa có quyết định thành lập các tổ kiểm tra tài chính tại Petrolimex. Có thể đó là lý do mà lãnh đạo Petrolimex đã chưa thể hình dung ra việc sẽ có một sự khác biệt quá lớn từ kết quả cuộc kiểm toán của Deloitte, cho thấy giữa "đỉnh điểm là năm 2008 lỗ đến 10.700 tỷ đồng" theo công bố của Petrolimex với "năm 2008, kinh doanh xăng dầu lãi 642 tỷ đồng, các hoạt động khác lãi 376 tỷ đồng, tổng hợp chung lãi 1.018 tỷ đồng" theo kiểm toán của Deloitte là khác nhau một trời một vực.

Nhưng vì sao lại có sự tréo ngoe về số liệu trong cùng một Petrolimex như thế?

Phục dựng "vở kịch" Petrolimex

Theo tường thuật của báo Tuổi Trẻ, cũng trong cuộc hội thảo trên, khi thấy ông Bùi Ngọc Bảo - Chủ tịch HĐQT Petrolimex - nhắc nhiều đến chuyện lỗ lã, ông Vương Đình Huệ đã phải ngắt lời, yêu cầu nêu rõ năm 2011 lỗ bao nhiêu, từng mặt hàng lỗ lãi như thế nào. Là người am hiểu về ngành tài chính, ông Huệ cũng đặt câu hỏi trực tiếp về lý do lỗ: Petrolimex đã thực hiện chiết khấu cho đại lý đúng quy định chưa?

Ông Bảo chưa kịp trả lời thì ông Nguyễn Cẩm Tú - Thứ trưởng Bộ Công thương, có mặt với tư cách khách mời, đã chen ngang cho rằng: "Các định mức cho chi phí kinh doanh xăng dầu đã quá cũ". Giữa tiếng ồn ào của những lời phát biểu chen ngang, ông Huệ truy vấn: "Thực chất từng mặt hàng xăng dầu lãi lỗ thế nào?". Ông Bảo khẳng định: "Chúng tôi không tách ra từng mặt hàng giá lỗ lại bao nhiêu mà tính tổng thể".

"Tại sao lại không thể hạch toán riêng? Vậy các anh tính toán thế nào để nói lỗ" - ông Huệ truy vấn tiếp và phê phán việc Petrolimex không thể nói lời lỗ từng mặt hàng là không thể chấp nhận được. "Không thể hạch toán từng mặt hàng thì tôi không biết quản trị các anh thế nào...? Chúng tôi sẽ yêu cầu báo cáo từng mặt hàng một chứ không có chuyện không biết lời lỗ từng mặt hàng" - ông Huệ bức xúc và khẳng định.

Trong buổi hội thảo trên, cần ghi nhận một nhân tố đặc biệt là Thứ trưởng Bộ Công Thương Nguyễn Cẩm Tú đã tỏ ra rất nhiệt tình bảo vệ cho quan điểm "lỗ" của Petrolimex: "Phải giải quyết cái gốc là doanh nghiệp đang lỗ rất lớn. Nếu không giải quyết được vấn đề này thì đừng hòng giải quyết được các vấn đề khác. Tôi đề nghị phải dùng đầu nhiều hơn dùng tay chân, nghĩa là bớt đi biện pháp hành chính, từng bước tăng giá, như thế bớt phải hội thảo".

Nếu như trong cùng một Petrolimex, người dân đã không thể hiểu được doanh nghiệp này thực chất lỗ hay lãi, thì trong cùng Bộ Công Thương, hình như lại tồn tại mâu thuẫn lớn khi vào tháng 9/2011, ông Tú thứ trưởng khẳng định Petrolimex lỗ; còn vào tháng 11/2011, ông Hoàng bộ trưởng lại khẳng định Petrolimex có lãi về tổng thể theo... bản cáo bạch cổ phần hóa. Phải chăng đó là tư tưởng "dùng đầu nhiều hơn dùng tay chân"?

Vậy thực chất vấn đề của Petrolimex và Petrolimex - Bộ Công Thương là như thế nào?

Kết thúc cuội hội thảo về cơ chế kinh doanh xăng dầu đề cập ở trên, ông Huệ đanh thép: "Nếu cần công bố gian lận, tôi sẽ công bố các gian lận".
Theo VEF

Công bố Bảng xếp hạng 500 DN lớn nhất Việt Nam năm 2011

Ngày 29/11/2011, Công ty cổ phần Báo cáo đánh giá Việt Nam (VietNam Report) kết hợp với Báo điện tử VietNamNet công bố bảng xếp hạng VNR500 - TOP 500 doanh nghiệp lớn nhất Việt Nam 2011. Đây là năm thứ 5 liên tiếp, Bảng xếp hạng VNR500 được chính thức công bố để ghi nhận và tôn vinh những thành quả mà cộng đồng doanh nghiệp Việt Nam đạt được.

Bảng xếp hạng VNR500 là kết quả nghiên cứu từ VietNam Report, được sự cố vấn của nhóm chuyên gia trong và ngoài nước, đứng đầu là GS. John Quelch, Nguyên Phó Hiệu trưởng Harvard Business School. VNR500 được xây dựng dựa trên các nguyên tắc khoa học, độc lập và tuân theo chuẩn mực quốc tế (dựa trên mô hình Fortune 500). Doanh nghiệp không phải nộp bất cứ khoản phí nào để được lọt vào bảng xếp hạng, cũng như không thể tác động nhằm thay đổi kết quả xếp hạng. Các doanh nghiệp lọt vào Bảng xếp hạng chỉ được biết thứ hạng của mình sau khi Ban tổ chức công bố công khai trên các phương tiện thông tin đại chúng.

Năm 2011, Bảng xếp hạng VNR500 được xây dựng dựa trên cở sở dữ liệu của VietNam Report (VNR Biz Database) và kết quả nghiên cứu số liệu điều tra mới nhất về các doanh nghiệp trên toàn quốc. Số liệu điều tra được cập nhật đến hết ngày 31/12/2010. Thứ hạng doanh nghiệp sẽ được sắp xếp dựa trên tiêu chí doanh thu.

Bên cạnh Bảng xếp hạng Top 500 doanh nghiệp lớn nhất Việt Nam (không phân biệt nhà nước, nước ngoài, tư nhân), VietNam Report cũng công bố Bảng xếp hạng 500 Doanh nghiệp tư nhân lớn nhất Việt Nam. Tiêu chí lựa chọn các doanh nghiệp tư nhân được VietNam Report sử dụng là các doanh nghiệp có vốn sở hữu tư nhân lớn hơn hoặc bằng 51%. Để được xếp hạng trong Bảng xếp hạng doanh nghiệp mọi thành phần, doanh thu tối thiểu của Doanh nghiệp phải trên 1500 tỷ đồng và vào Bảng xếp hạng doanh nghiệp tư nhân, doanh thu tối thiểu của Doanh nghiệp phải đạt trên 600 tỷ đồng.

Ngoài ra, dựa trên danh sách công bố độc giả có thể tham khảo thứ hạng các doanh nghiệp được sắp xếp theo các tiêu chí khác như: Top doanh nghiệp có lợi nhuận cao nhất, Top doanh nghiệp có tốc độ tăng trưởng cao nhất, Top doanh nghiệp có số lao động lớn nhất, Top doanh nghiệp có tổng tài sản lớn nhất…

Thông tin chi tiết và danh sách được đăng tại trang website: www.vnr500.com.vn

Trong năm 2011, Ban tổ chức đã nhận được sự hợp tác tích cực từ các doanh nghiệp lớn trong việc hợp tác công bố thông tin tài chính và kiểm chứng dữ liệu điều tra. Đã có gần 2500 hồ sơ, tài liệu cũng như các báo cáo tài chính được doanh nghiệp được chủ động gửi về cho Ban tổ chức dùng làm tài liệu tham khảo khi xếp hạng. Đây là dấu hiệu đáng mừng cho thấy môi trường kinh doanh tại Việt Nam đang tiến triển mạnh mẽ theo hướng minh bạch hoá phù hợp với thông lệ quốc tế.

Kết quả nghiên cứu của Vietnam Report được công bố theo hai Bảng xếp hạng chính như sau:
Bảng xếp hạng VNR500 500 doanh nghiệp lớn nhất VN 2011 (Top 10)

1. Tập đoàn Dầu khí VN
2. Tổng công ty xăng dầu VN
3. Tập đoàn Bưu chính Viễn thông VN
4. Công ty TNHH MTV Vàng bạc Đá quý Sài Gòn SJC
5. Tập đoàn Điện lực VN
6. Xí nghiệp Liên doanh Dầu khí VietxoPetro
7. Tập đoàn Viễn thông Quân đội
8. Tập đoàn Công nghiệp Than - Khoáng sản
9. Tổng công ty Dầu VN
10. Ngân hàng Nông nghiệp & Phát triển Nông thôn VN

Bảng xếp hạng VNR500 - 500 doanh nghiệp tư nhân lớn nhất VN 2011 (Top 10)

1. Công ty TNHH MTV Vàng bạc Đá quý Sài Gòn Thương Tín
2. Công ty CP FPT
3. Công ty CP Tập đoàn Vàng bạc Đá quý Doji
4. Ngân hàng TMCP Á Châu (ACB)
5. Công ty CP Sữa VN (Vinamilk)
6. Công ty CP Thương mại Thái Hưng
7. Công ty CP Tập đoàn Hoà Phát
8. Công ty CP Vàng bạc Đá quý Phú Nhuận
9. Ngân hàng TMCP Kỹ thương VN
10. Ngân hàng TMCP Sài Gòn Thương Tín
Nhìn vào Bảng xếp hạng năm 2011 có thể thấy:
Thứ nhất, về cơ cấu loại hình doanh nghiệp, các doanh nghiệp trực thuộc khu vực kinh tế Nhà nước, bao gồm các Tập đoàn, các TCT và các công ty có vốn Nhà nước chi phối tiếp tục chiếm tỷ lệ cao trong Bảng xếp hạng VNR500 năm 2011 với tỷ lệ 41,6%. Ngoài số lượng lớn trong BXH VNR500 năm 2011, các Tập đoàn và TCT Nhà nước cũng chiếm vị trí chi phối áp đảo trong Top 10 Doanh nghiệp lớn nhất Việt Nam, với sự góp mặt của 04 Tập đoàn kinh tế Nhà nước và 02 Tổng công ty Nhà nước. Các doanh nghiệp khối tư nhân và FDI chiếm tỷ lệ lần lượt là 37,4% và 21,0%. Điểm đáng lưu ý ở đây là khối tư nhân đang dần khẳng định được vị thế của mình trong nền kinh tế khi tỷ lệ doanh nghiệp khối tư nhân có mặt trong BXH lần lượt tăng đều qua các năm (24% trong BXH năm 2008, 30% trong BXH năm 2009, 31,2% trong BXH năm 2010 và 37,4% trong BXH năm 2011).

Thứ hai, về cơ cấu ngành nghề, BXH VNR500 năm 2011 tiếp tục cho thấy một số ngành trọng điểm vẫn duy trì được vị thế ưu thế của mình, như các ngành Khoáng sản – Xăng dầu (chiếm tỷ lệ 15%), ngành Ngân hàng – Tài chính (9,8%), Thực phẩm – Đồ uống (8,2%), Viễn thông (6%), Điện (6,8%). Đáng chú ý có ngành Viễn thông với sự góp mặt của 2 doanh nghiệp trong ngành trong Top 10 của BXH năm 2011. Trong khi đó các ngành khác gần như giữ ở mức “cầm chừng” so với thứ hạng năm ngoái, không có sự thay đổi nào đáng kể. Trong bối cảnh kinh tế thế giới và kinh tế trong nước có nhiều biến động, việc các ngành kinh tế chủ lực của Việt Nam vẫn giữ được “vị thế” của mình cũng có thể xem là một điều rất đáng ghi nhận trong BXH năm 2011.

Thứ ba, các doanh nghiệp trong VNR500 năm 2011 ngày càng chứng tỏ được sức mạnh đáng kể của mình với top 30 doanh nghiệp đầu tiên trong BXH đủ điều kiện gia nhập nhóm câu lạc bộ doanh thu 1 tỷ đô với mức doanh thu trung bình của nhóm đạt 3,2 tỷ USD (Tăng so với mức 2,7 tỷ USD trong BXH năm 2010). Và rất đáng ghi nhận khi các doanh nghiệp hàng đầu của Việt Nam đang ngày càng thu hẹp khoảng cách với các doanh nghiệp trên toàn cầu khi Top 50 doanh nghiệp đầu tiên trong BXH năm 2011 đủ tiêu chí về doanh thu để có thể đứng trong Bảng Xếp hạng Forbes 2000 về top 2000 doanh nghiệp lớn nhất toàn cầu.

Thứ tư, về hiệu quả sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp theo thành phần kinh tế, các doanh nghiệp khu vực FDI trong BXH năm 2011 vẫn cho thấy hiệu quả kinh doanh tốt nhất với tỷ lệ lợi nhuận trên vốn (ROA) khoảng 9%, cao hơn rất nhiều so với khu vực Nhà nước (2,7%) và khu vực tư nhân (2,5%). Cũng vậy, so với BXH năm 2010, tỷ lệ ROA của khối DNNN cũng đã giảm gần một nửa (Từ 5% xuống còn 2.7%). Điều này cho thấy một thực trạng không vui là hiệu quả kinh doanh và đầu tư của khối doanh nghiệp trong nước, bao gồm cả doanh nghiệp nhà nước và doanh nghiệp tư nhân, liên tục ở mức thấp trong các năm qua.

Thứ năm, về địa bàn, chủ yếu các doanh nghiệp lớn trong BXH năm 2011 vẫn tập trung ở hai trung tâm kinh tế lớn là Hà Nội và TP HCM. Số lượng DN nằm trong hai địa bàn này gần xấp xỉ nhau (với 25,8% cho TPHCM và 21,8% cho Hà Nội). Các địa bàn khác chiếm tỷ lệ không đáng kể (dưới 6%).

Thứ sáu, bảng xếp hạng cũng cho thấy có những biến động nhỏ trong nền kinh tế Việt Nam nói chung, và khu vực doanh nghiệp lớn nói riêng khi có khoảng 18% doanh nghiệp trong Bảng xếp hạng VNR 500 năm 2010 bị loại khỏi VNR 500 năm 2011.

Mặc dù sẽ không tránh khỏi các sai sót trong việc điều tra thu thập số liệu thống kê, tuy nhiên với mong muốn xây dựng một bức tranh tổng thể phản ánh hiện trạng sức mạnh của các doanh nghiệp Việt Nam, chúng tôi hy vọng trong thời gian tới ngành xếp hạng Việt Nam sẽ có những bước phát triển mạnh mẽ nhằm theo kịp xu thế phát triển của thời đại. Trong đó yếu tố quyết định không thể thiếu đó chính là sự ủng hộ từ cộng đồng các doanh nghiệp, từ cơ quan quản lý nhà nước và từ công chúng trong việc quản lý, giám sát, công khai minh bạch trong hoạt động xếp hạng.
(Theo DDDN)

Sunday 27 November 2011

Góc khuất chất lượng báo cáo kiểm toán doanh nghiệp

Xem hình

Báo cáo kiểm toán được coi là một công cụ để các NĐT, cơ quan quản lý xác minh mức độ trung thực, đáng tin cậy của BCTC các doanh nghiệp. Nhưng thực tế cho thấy, không phải mọi báo cáo kiểm toán “sạch” đều đồng nghĩa với việc không có nguy cơ có sai sót trọng yếu trong BCTC.

Những khoản ngoại trừ “to đùng”

Phát biểu tại buổi tọa đàm về sai sót thường gặp qua kiểm soát chất lượng kiểm toán thường niên năm 2011, ông Bùi Văn Mai, Phó Chủ tịch thường trực kiêm Tổng thư ký Hội Kiểm toán viên hành nghề Việt Nam (VACPA) cho biết, trong quá trình kiểm tra, ông đã phát hiện có trường hợp một Báo cáo kiểm toán tại một công ty đóng tàu thuộc Vinashin đã ngoại trừ khoản mục hàng tồn kho. Theo ông Mai, chỉ dùng phép cộng trừ đơn thuần, ước tính giá trị hàng tồn kho bao gồm cả tài sản cố định, nguyên vật liệu, sản phẩm dở dang… của công ty này đã chiếm 70- 80% tổng tài sản. “Một khoản ngoại trừ hàng tồn kho lên tới 80% giá trị tài sản thì phần 20-30% giá trị còn lại, cho dù có là trung thực, hợp lý đi nữa thì làm sao có thể đảm bảo chất lượng báo cáo kiểm toán được?” ông Mai nhận xét.

Lý giải tình trạng này, ông Mai cho rằng, có hai nguyên nhân chủ yếu: một là, thời điểm ký hợp đồng kiểm toán diễn ra sau ngày kiểm kê hàng tồn kho của DN; hai là, DN có nhiều kho ở nhiều nơi, giá trị hàng tồn kho lớn mà yêu cầu kiểm kê trong vòng 1, 2 ngày. Và đây thực sự là thách thức lớn đối với CTKT.

“Làm sạch” nợ xấu

Không chỉ hàng tồn kho là đối tượng dễ bị ngoại trừ, các khoản cho vay, khoản phải thu đôi khi cũng được kiểm toán chấp nhận dù còn thiếu căn cứ. “Bình thường, quy trình xác định khả năng thu hồi của khoản phải thu của DN phải rất cẩn trọng. Ví dụ, kiểm toán chọn ngẫu nhiên 30/100 đối tượng để gửi thư xác nhận nợ. Nếu cả 30 đối tượng trên đều có thông tin phản hồi là đúng thì kiểm toán có thể chấp nhận được. Nhưng giả thiết có 3 trong số 30 đối tượng trên cho phản hồi là sai, thì kiểm toán viên lại phải chọn tiếp ngẫu nhiên 30 đối tượng khác để lấy ý kiến và làm lại quy trình trên, để xác định đúng nợ phải thu của DN”, ông Mai cho biết. Theo ông Mai, tình trạng các kiểm toán viên không gửi thư xác nhận hoặc gửi nhưng không tổng hợp kết quả xác nhận mà dễ dàng chấp nhận nợ phải thu theo sổ sách của doanh nghiệp là có.

Điều này khiến cho chúng ta liên tưởng đến các khoản nợ phải thu của nhóm CTCK có thể tồn đọng nhiều năm, thậm chí lên tới hàng nghìn tỷ đồng, nhưng vẫn không có khoản trích lập dự phòng nào (dù thực tế là khó thu hồi). Rồi, nợ phải thu của người có liên quan như: cổ đông lớn, cổ đông nội bộ, lãnh đạo DN… nhưng không được kiểm toán lưu ý. Chính việc vô tình hoặc cố tình bỏ qua khâu xác nhận nợ phải thu và khả năng thu hồi nợ đã khiến người sử dụng BCTC có cái nhìn không chính xác về thực trạng tài chính của DN. Và, việc này chỉ có thể hy vọng vào chính đạo đức của người làm kiểm toán, đơn vị độc lập duy nhất được tiếp cận chính xác tới giấy tờ của DN, chứ không phải là ai khác.

Báo cáo kiểm toán… “thế mạng”

Dùng từ “thế mạng” ở đây có thể không chuẩn lắm, nhưng có lẽ sẽ giúp người đọc hình dung ra những báo cáo kiểm toán đang được lập nhằm mục đích làm đẹp và thay thế báo cáo kiểm toán “xấu xí” với nhiều khoản ngoại trừ của DN đã được lập bởi một CTKT khác. Bà Lê Thị Hòa, Vụ phó Vụ Quản lý Phát hành, Uy ban Chứng khoán Nhà nước (UBCK) cho biết: UBCK đã phát hiện được trường hợp một CTKT thuộc nhóm big 4, big 5 (nhóm 4, 5 CTKT lớn nhất) tham gia vào hoạt động trên.

“Có trường hợp DN kiểm toán ra báo cáo lần đầu có nhiều điểm ngoại trừ, đã thuê một CTKT khác làm lại, với báo cáo chấp nhận toàn phần. Điều này là không thể chấp nhận được. Các bạn nghĩ rằng, nếu DN ỉm đi báo cáo kiểm toán lần đầu và làm kiểm toán lại thì sẽ không ai biết, nhưng nếu trong quá trình rà soát lại, chuyện đó lộ ra thì uy tín của các bạn sẽ như thế nào?” bà Hòa đặt câu hỏi với đại diện các CTKT. Theo bà Hòa, thời gian tới, UBCK sẽ xem xét lại toàn bộ và có biện pháp xử lý nghiêm những CTKT đưa ra ý kiến kiểm toán không trung thực.

“Không có khái niệm nhanh, nhiều, tốt, rẻ trong kiểm toán”, ông Mai nhận xét trong nhiều sai sót hiện nay có phần do mức phí kiểm toán quá thấp, không đủ bù đắp chi phí nếu tuân thủ 100% thủ tục kiểm toán (chỉ từ 30 – 70 triệu đồng/ DN). Để ra được một báo cáo kiểm toán của DN lớn hay nhỏ, kiểm toán viên đều phải tuân theo một quy trình chuẩn – một khối lượng công việc rất lớn. Theo nhiều ý kiến, trong bối cảnh báo cáo kiểm toán vẫn có sự mập mờ về chất lượng mà chưa có sự xử lý thật nghiêm minh từ cơ quan quản lý, người sử dụng BCTC không thể đặt cả niềm tin vào những BCTC đã được kiểm toán mà phải tìm hiểu thật kỹ về tình hình thực tế của doanh nghiệp.

(Theo Đầu tư chứng khoán)

Doanh nghiệp Nhà nước thua lỗ: Những con số kinh hoàng

Xem hình

Một trong những nguyên nhân của sự bất ổn cấu trúc của nền kinh tế chính là đầu tư kém hiệu quả, tỷ lệ đầu tư rất cao nhưng tăng trưởng lại không tỷ lệ thuận.

Chiếm đến 70% vốn đầu tư toàn xã hội, 50% vốn đầu tư Nhà nước, 60% tín dụng của các ngân hàng thương mại, 70% nguồn vốn ODA nhưng theo Bộ Kế hoạch và Đầu tư, doanh nghiệp Nhà nước (DNNN) chỉ đóng góp khoảng 37%-38% GDP. Có đến 31% DNNN bị lỗ trong sản xuất kinh doanh, 29% hoạt động không hiệu quả, lỗ lãi tượng trưng. Chính vì vậy, việc tái cơ cấu DNNN, nhất là các tập đoàn kinh tế và tổng công ty Nhà nước, trở nên cấp bách hơn bao giờ hết.

Nợ liên hoàn

Hiện nay, cả nước có trên 1.200 DNNN là công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên. Trong năm 2009, theo báo cáo của Chính phủ gửi Quốc hội ngày 1-11-2010 thì nợ của 81/91 tập đoàn, tổng công ty nhà nước (chưa tính Vinashin) là 813.435 tỷ đồng. Nếu tính cả nợ của Vinashin, theo báo cáo của Bộ Tài chính là 86.000 tỷ đồng thì nợ của khu vực DNNN đến 2009 không kể 9 tập đoàn, tổng công ty chưa có số liệu đã lên tới 54,2% GDP năm 2009.

Nhiều DNNN đang lâm nạn nợ nần, nảy sinh chuỗi nợ liên hoàn. Theo báo cáo của Đảng ủy khối doanh nghiệp Trung ương mới đây, những con số lỗ lớn tính từ đầu năm của các tập đoàn, tổng công ty Nhà nước đang ở mức giật mình: gần 8.000 tỉ đồng nợ ở tập đoàn Điện lực; khoảng 1.500 tỉ đồng của tổng công ty Xăng dầu, hay hơn 600 tỉ đồng với tổng công ty Hàng hải. Và đằng sau những con số lỗ lớn của nhiều tập đoàn, tổng công ty là câu chuyện về nợ xấu ngân hàng và chiếm dụng vốn lẫn nhau. Theo số liệu của ngân hàng Thế giới, hiện các DNNN chiếm tới 60% tín dụng của các ngân hàng, các tổ chức tín dụng. Đặc biệt mức nợ của các DNNN đang chiếm tới 70% nợ xấu của các ngân hàng. Tính đến hết tháng 8- 2011, nợ xấu toàn ngành ngân hàng ở mức trên 76.000 tỉ đồng và đang có xu hướng tăng. Trong đó, các tổ chức tín dụng có nguy cơ mất trắng khoảng 37.000 tỉ đồng.

Một trong những nguyên nhân của sự bất ổn cấu trúc của nền kinh tế chính là đầu tư kém hiệu quả, tỷ lệ đầu tư rất cao nhưng tăng trưởng lại không tỷ lệ thuận. Thực tế, nguồn vốn chủ đạo để đầu tư của khu vực công được lấy từ ngân sách Nhà nước, tín dụng nhà nước và các doanh nghiệp Nhà nước, trong đó đầu tư từ ngân sách và các DNNN chiếm trên 75%. Số liệu từ Viện Nghiên cứu và quản lý kinh tế Trung ương cho thấy, giai đoạn 2005-2009, lĩnh vực công nghiệp- xây dựng được ưu tiên trên 50% vốn, song đóng góp vào GDP lại chỉ dưới 40%. Vốn đầu tư từ ngân sách Nhà nước giai đoạn 2001-2010 chiếm 52,2% tổng vốn đầu tư khu vực Nhà nước và bằng khoảng 24,1% tổng vốn đầu tư toàn xã hội. Tính theo tỉ lệ trên GDP, vốn đầu tư từ ngân sách Nhà nước trong giai đoạn này lên đến 9,8%. Bên cạnh hiệu quả đầu tư không cao thì việc đầu tư vượt quá khả năng của nền kinh tế đã dẫn đến đầu tư dàn trải, kéo dài; cơ cấu đầu tư thiếu cân đối nên chưa tạo ra sức mạnh tổng hợp; việc theo dõi, giám sát còn yếu nên hiệu quả đầu tư chưa cao.

Tái cơ cấu như thế nào?


Từ những hoạt động kém hiệu quả, thua lỗ kéo dài của nhiều DNNN, đặt ra vấn đề cần phải tái cơ cấu lại. Bà Victoria Kwakwa - Giám đốc Ngân hàng Thế giới tại Việt Nam tại hội thảo “Triển vọng kinh tế thế giới và chính sách ứng phó của Việt Nam” ngày 18-10, cũng cho rằng: Hơn lúc nào hết, Việt Nam cần thúc đẩy hơn nữa tái cơ cấu nền kinh tế.

Những nguyên nhân chủ yếu, xuất phát từ đặc thù của DNNN, không theo đuổi mục tiêu tối đa hóa lợi nhuận như DN thuộc các thành phần kinh tế khác. Cơ cấu DNNN hoạt động kinh doanh chưa hợp lý, có khoảng cách khá xa giữa chính sách và triển khai thực hiện. Kết quả của quá trình cơ cấu lại DNNN đến nay mới chỉ dừng ở mức độ giảm số lượng DNNN nên chưa có ảnh hưởng rõ rệt đến cơ chế phân bổ nguồn lực Nhà nước, tái cấu trúc ngành nghề và hiệu quả hoạt động của khu vực DNNN. Việc quản lý, giám sát hiệu quả hoạt động của DNNN cũng chưa tốt.

Tuy nhiên tái cơ cấu như thế nào cho hiệu quả đang là bài toán hóc búa. Khó khăn nhất là nó đụng đến lợi ích của những nhóm hùng mạnh. Vì thế, cần xác định mục tiêu số 1 của việc bán DNNN là thu tiền về cho ngân sách hay là bán để sau này nó hoạt động hiệu quả hơn? Theo các chuyên gia kinh tế, không nên đặt nặng vấn đề là thu lớn cho ngân sách mà cần nhìn về tương lai. Ông Bùi Ngọc Sơn - Viện Kinh tế chính trị thế giới lưu ý: “Tái cấu trúc không chỉ là “tráo đầu đũa, lau cho sạch sẽ” mà là tư nhân hóa toàn bộ, tư nhân hóa từng phần hay trao quyền tự chủ cho DNNN. Chính phủ cần phải lên danh sách các loại DNNN theo các cấp độ thị trường: xem bán cái gì trước, cái gì sau. Tuy nhiên có những phần cần lưu ý như đường sắt, hệ thống truyền tải điện, tư nhân không thể tham gia trực tiếp mà phải có bàn tay của Nhà nước”.

Tại hội thảo “Tái cấu trúc DNNN”, TS Võ Trí Thành, Phó Viện trưởng Viện Nghiên cứu và Quản lý kinh tế Trung ương cũng cho rằng vấn đề của DNNN là phải giải quyết vấn đề quyền người đại diện. Chúng ta đã có tư tưởng thuê CEO (Giám đốc điều hành), giám sát CEO thế thì sao không dám làm mạnh. Một CEO giỏi lương triệu đô mà làm ra lợi nhuận cả nghìn tỷ còn hơn một vị Tổng giám đốc người của Nhà nước lương vài chục triệu mà gây thua lỗ, nợ nần.

Theo các chuyên gia, để nâng cao hiệu quả hoạt động, phải đặt DNNN vào môi trường cạnh tranh, cần tách biệt vai trò Nhà nước với tư cách là chủ sở hữu với tư cách quản lý, điều tiết. Các biện pháp của Chính phủ phải giúp DNNN nâng cao hiệu quả hoạt động, nâng cao năng suất chứ không phải tăng lợi nhuận ngắn hạn. Các DNNN cần phải chịu các áp lực cạnh tranh giống các thành phần kinh tế khác.

Việc tái cơ cấu DNNN, trong đó bao gồm đẩy mạnh tiến trình sắp xếp DNNN, trong vài năm gần đây diễn ra rất chậm. Để đạt được mục tiêu tái cơ cấu DNNN cần tiến hành đồng bộ, trong đó có cả tái cơ cấu thị trường tài chính, thị trường vốn. Bên cạnh đó, mục tiêu cổ phần hóa là nhằm nâng cao chất lượng, hiệu quả, thay đổi căn bản quản trị doanh nghiệp; trong đó có việc tìm nhà đầu tư chiến lược có năng lực thật sự, có vị thế không chỉ trong nước mà cả quốc tế để nâng cao chất lượng hoạt động sau cổ phần hóa.

Là nguồn gốc của tăng trưởng kinh tế, kéo theo chuyển dịch cơ cấu kinh tế, việc tái cấu trúc đầu tư công được nhận định là yếu tố gây ra hiệu ứng mạnh, là công cụ điều chỉnh định hướng kinh tế và dẫn dắt các nguồn đầu tư trong và ngoài nước. Chính phủ cần quyết liệt cắt giảm đầu tư công như bán đứt, thậm chí bán lỗ những dự án dở dang, không nhất thiết phải nắm trong khi tư nhân làm được, lấy nguồn lực này để sử dụng hiệu quả hơn. Dư luận cũng cho rằng chúng ta không nên “đẻ” thêm các dự án mà vài năm tới chúng ta lại phải ngồi bàn và tìm nguyên nhân vì sao không thể trả được nợ. Nhiều chuyên gia cũng đề xuất nên đầu tư toàn xã hội xuống dưới 35% GDP so với mức trên 40% năm 2011, trong đó giảm mạnh đầu tư công xuống dưới 1/3 tổng đầu tư toàn xã hội. Đặc biệt, cần rà soát lại toàn bộ danh mục đầu tư đã được phê duyệt nhưng chưa triển khai thực hiện, cương quyết loại bỏ các danh mục đầu tư không còn phù hợp với điều kiện và tiêu chí mới.

Những vụ việc đầu tư tràn lan của các DNNN ngày càng để lại hệ quả xấu cho nền kinh tế. Trong khi nhiều chuyên gia cho biết đây mới chỉ là phần nổi của tảng băng chìm, nếu thông tin được minh bạch hơn thì con số này sẽ còn cao hơn nhiều.

Tại hội thảo “Tái cấu trúc DNNN” do Học viện Tài chính (Bộ Tài chính ) tổ chức ngày 15-11, nhiều đại biểu có chung nhận định nhiều DNNN đang trở thành gánh nặng của nền kinh tế. Mức lỗ bình quân của DNNN cao gấp 12 lần doanh nghiệp ngoài Nhà nước. Một cuộc điều tra 200 doanh nghiệp Việt Nam lớn nhất mới đây do Chương trình phát triển liên hợp quốc (UNDP) thực hiện khẳng định rằng “Top 200” của Việt Nam đang đầu cơ đất đai và chứng khoán mà thiếu tập trung vào hoạt động kinh doanh cốt lõi. Thay vào đó, các công ty này đua nhau tìm kiếm lợi nhuận tức thời trong khu vực bất động sản và tài chính. Một số Tập đoàn kinh tế như Petro Việt Nam, Vinashin đang thành lập hay đoạt quyền kiểm soát ở một số ngân hàng, EVN đầu tư sang cả viễn thông, quân đội kinh doanh xăng dầu, ngân hàng.

(Theo ANTĐ)

Thursday 24 November 2011

UBCKNN CÔNG BỐ DANH SÁCH CÔNG TY KIỂM TOÁN VÀ KIỂM TOÁN VIÊN HÀNH NGHỀ ĐƯỢC CHẤP THUẬN NĂM 2012 (ĐỢT 1)


Ủy ban Chứng khoán Nhà nước công bố Danh sách các Công ty kiểm toán và kiểm toán viên được chấp thuận kiểm toán cho các tổ chức phát hành, tổ chức niêm yết và tổ chức kinh doanh chứng khoán năm 2012 (đợt 1):

1. Công ty TNHH Dịch vụ Tư vấn tài chính Kế toán và Kiểm toán Nam Việt

2. Công ty TNHH Kiểm toán - Tư vấn Đất Việt

3. Công ty TNHH PRICEWATERHOUSECOOPERS VIỆT NAM

4. Công ty TNHH Kiểm toán và Tư vấn Chuẩn Việt

5. Công ty TNHH kiểm toán và tư vấn NEXIA ACPA

6. Công ty TNHH Kiểm toán ĐÔNG Á

7. Công ty TNHH Deloitte Việt Nam

8. Công ty TNHH Grant Thornton Việt Nam

9. Công ty TNHH Kiểm toán Việt Nhất (K.T.V.N)

10. Công ty TNHH Kiểm toán AS (AS)

11. Công ty TNHH Kiểm toán Nhân Việt (VP AUDIT)

12. Công ty TNHH Kiểm toán DFK Việt Nam (DFK)

13. Công ty TNHH Kiểm toán Sao Việt (SV)

14. Công ty TNHH Công ty TNHH Tư vấn thuế Kế toán & Kiểm toán AVINA – IAFC (AVINA-IAFC)

15. Công ty TNHH MAZARS Việt Nam (MAZARS)

16. Công ty TNHH Kiểm toán An Phú (AP)

17. Công ty TNHH KPMG

18. Công ty TNHH Kiểm toán và Tư vấn Thuế ATAX

19. Công ty TNHH Kiểm toán Việt Anh

20. Công ty TNHH Kiểm toán D.T.L

21.Công ty TNHH Kiểm toán FAC

22. Công ty TNHH Kiểm toán và Tư vấn Tài chính Quốc tế - IFC

23. Công ty TNHH Kiểm toán tư vấn thuế (ATC)

24. Công ty TNHH Kiểm toán Quốc gia Việt Nam (Mekong Nag)

25. Công ty TNHH kế toán và Kiểm toán (AAC)

26. Công ty TNHH Kiểm toán PKF Việt Nam

27. Công ty TNHH Kiểm toán và Định giá Việt Nam (VAE)

28. Công ty TNHH Dịch vụ Kiểm toán và Tư vấn UHY

29. Công ty TNHH Kiểm toán và Dịch vụ Tin học TP.HCM (AISC)

30. Công ty Hợp danh Kiểm toán Việt Nam (CPA VN)

31. Công ty TNHH Dịch vụ Tư vấn tài chính kế toán và Kiểm toán phía Nam (AASCS)

32. Công ty TNHH Tư vấn kế toán và Kiểm toán Việt Nam (AVA)

(Danh sách cụ thể Công ty kiểm toán và kiểm toán viên mời xem file đính kèm)

(UBCKNN)

File kèm theo

Monday 21 November 2011

SẼ LIÊN TỤC KIỂM TRA CÁC CTKT KÉM CHẤT LƯỢNG

SẼ LIÊN TỤC KIỂM TRA CÁC

CTKT KÉM CHẤT LƯỢNG

Ông Bùi Văn Mai

Mới đây, Hội Kiểm toán viên hành nghề Việt Nam (VACPA) đã kết thúc cuộc kiểm tra thường niên đối với các công ty kiểm toán (CTKT), trong đó có 2 công ty đã kiểm toán BCTC của CTCP Dược Viễn Đông (DVD). ĐTCK đã có cuộc trao đổi với Ông Bùi Văn Mai, Phó Chủ tịch thường trực kiêm Tổng Thư ký, Trưởng Ban kiểm tra của VACPA xung quanh kết quả cuộc kiểm tra. Bùi Trang thực hiện.

Bùi Trang

Xin ông cho biết kết quả kiểm tra chất lượng dịch vụ kiểm toán thường niên 2011 có vấn đề gì đáng chú ý? Mức độ tuân thủ 2 nội dung kiểm tra là tuân thủ pháp luật và tuân thủ chuẩn mực nghề nghiệp của các CTKT như thế nào?

VACPA vừa kết thúc đợt kiểm tra thường niên năm 2011. Do có yêu cầu mới nên việc kết thúc kiểm tra, ký Biên bản kiểm tra tại một vài công ty năm nay bị chậm trễ. Kết quả cuộc kiểm tra năm 2011 tốt hơn hẳn các cuộc kiểm tra các năm trước, số lượng đơn vị được kiểm tra tăng 50% so với năm 2010. Tiêu chí kiểm tra được bổ sung đầy đủ, chi tiết hơn, cách thức tổ chức Đoàn kiểm tra và đặc biệt, Bảng chấm điểm kiểm tra đã được hoàn chỉnh hơn hẳn năm 2010.

Qua đợt kiểm tra, có thể thấy, hoạt động kiểm toán năm 2011 đã phát triển và tốt hơn nhiều so với các năm trước. Tuy nhiên, yêu cầu tuân thủ pháp luật, chất lượng dịch vụ cũng như đòi hỏi của khách hàng kiểm toán, cơ quan quản lý nhà nước và của xã hội cũng cao, bởi vậy, hoạt động kiểm toán thực sự vẫn chưa đáp ứng, chưa thỏa mãn yêu cầu của xã hội.

Thông qua kiểm tra, ông nhận thấy chất lượng dịch vụ của các công ty kiểm toán có sự thay đổi như thế nào? Sai sót nào thường hay gặp phải?

Kiểm toán là dịch vụ tư vấn có giá trị pháp lý cao, chất lượng của dịch vụ là vô hình, không lượng hóa được, và khó đánh giá ngay tại thời điểm hoàn thành. Việc đánh giá chất lượng dịch vụ phải dùng đến nhiều chỉ tiêu gián tiếp, chúng tôi đã xây dựng Bảng chỉ tiêu kiểm tra và chấm điểm mức độ tuân thủ pháp luật và chuẩn mực.

Năm 2011, điểm bình quân của 30 công ty được kiểm tra là 66/100 điểm, tăng 5 điểm so với năm 2010. Số lượng công ty đạt điểm tốt giảm 8%, trong khi số lượng công ty đạt yêu cầu tăng 10%; công ty chưa đạt yêu cầu và yếu kém cũng giảm đi 2%.

Kết quả kiểm tra trực tiếp năm 2011 tại Công ty kiểm toán

Xếp loại

Năm 2011

Năm 2010

Số công ty

%

Số công ty

%

Tốt

5

17

5

25

Đạt yêu cầu

18

60

10

50

Chưa đạt yêu cầu

6

20

2

10

Yếu kém

1

3

3

15

Cộng

30

100%

20

100%

So với các năm trước, các CTKT đã quan tâm hơn đến việc lập kế hoạch kiểm toán, thực hiện thủ tục đánh giá rủi ro trọng yếu và tuân thủ các biện pháp kiểm tra khâu đánh giá có rủi ro…

Một số sai sót thường gặp vẫn còn lặp lại, như kiểm toán viên (KTV) không tham gia kiểm kê hàng tồn kho, không gửi hoặc gửi không đủ thư xác nhận nợ phải thu, phải trả, vay ngân hàng, các điểm ngoại trừ không ước tính ảnh hưởng đến BCTC…

Trong các nguyên nhân dẫn đến sai sót lặp lại nhiều năm, có phần do đơn vị được kiểm toán ký hợp đồng kiểm toán chậm, sau ngày khóa sổ lập báo cáo tài chính nên KTV không tham gia kiểm kê được… và nguyên nhân phí kiểm toán thấp, không đủ chi phí thực hiện hết các thủ tục cần thiết, và phần nữa là do đã sai sót nhiều năm vẫn không bị xử lý nên vẫn tồn tại.

Đối với những công ty chưa đạt yêu cầu, VACPA có khuyến cáo, hỗ trợ gì để nâng cao chất lượng dịch vụ?

Để nâng cao chất lượng kiểm toán, cần triển khai nhiều biện pháp từ nhiều phía. VACPA đã và sẽ hỗ trợ bằng dịch vụ tư vấn chuyên môn, biên soạn tài liệu hướng dẫn, đào tạo. VACPA sẽ tiếp tục kiểm tra thường xuyên, đột xuất và xử lý chặt chẽ các sai phạm. Với các CTKT kém chất lượng, phải được kiểm tra liên tục vài năm liền.

Theo tôi, cơ quan quản lý nhà nước cũng cần phải kiểm tra sát sao, xử lý triệt để các sai phạm của các CTKT.

Về phía các đơn vị được kiểm toán, cần phải lập báo cáo tài chính trung thực, đúng thời hạn; phải ký hợp đồng kiểm toán từ 2 đến 3 năm để CTKT chủ động triển khai hoạt động kiểm toán… Bên cạnh đó, cần nâng cao mặt bằng giá phí, đủ để công ty kiểm toán trang trải chi phí cho đầy đủ các thủ tục kiểm toán, bảo đảm chất lượng dịch vụ kiểm toán.

Liên quan đến 2 công ty đã kiểm toán DVD, xin ông cho biết kết quả kiểm tra 2 công ty này? Liệu họ có sai sót gì trong kiểm toán DVD hay không? Và nếu có trách nhiệm ở mức độ nào?

Kết quả kiểm tra 2 công ty kiểm toán đã kiểm toán DVD vẫn đạt điểm loại tốt. Do đây là cuộc kiểm tra thường niên của VACPA nên không có chủ định xác định sai sót trong kiểm toán DVD. Tuy nhiên điểm số cao cũng không hoàn toàn khẳng định là không có sai sót trừ khi thực hiện một cuộc kiểm tra chuyên đề hoặc thực hiện lại cuộc kiểm toán tại DVD. Bảng chấm điểm chỉ là các thủ tục tối thiểu cho các CTKT đang hoạt động tại Việt Nam.

(Theo ĐTCK)
Nguồn: VACPA

Thuyết minh BCTC của các CTCK: “Khoảng trống” thông tin

Xem hình

CTCK là các tổ chức đóng vai trò trung gian, tư vấn và tham gia trực tiếp vào sự vận hành của TTCK.

Việc minh bạch thông tin của CTCK không chỉ giảm thiểu rủi ro cho cổ đông của các DN này, mà còn góp phần quan trọng tạo dựng niềm tin cho các chủ thể tham gia thị trường, giúp thị trường phát triển lành mạnh. Tuy nhiên, trong báo cáo tài chính (BCTC) bán niên năm 2011 được kiểm toán soát xét của một số CTCK đã xuất hiện những con số mập mờ, tiềm ẩn rủi ro với công chúng đầu tư. Đó cũng là nguyên nhân khiến UBCK mới đây phải yêu cầu CTCK SME phải gửi công văn giải trình, thuyết minh chi tiết về các khoản phải thu và phải trả khác trên BCTC bán niên năm 2011 đã được kiểm toán soát xét.

Theo quy định, các CTCK khi lập BCTC phải tuân thủ chế độ kế toán DN ban hành theo Quyết định số 15/2006/QĐ-BTC của Bộ Tài chính và các chuẩn mực kế toán Việt Nam. Các nghiệp vụ đặc thù trong hoạt động của CTCK được hạch toán theo Thông tư số 95/2008/TT-BTC và Thông tư số 162/2010/TT-BTC của Bộ Tài chính. Chế độ và chuẩn mực kế toán Việt Nam yêu cầu trình bày chi tiết các thông tin trọng yếu trong thuyết minh BCTC. Tuy nhiên, trên BCTC bán niên năm 2011 đã được soát xét hoặc được kiểm toán của một số CTCK niêm yết lại cho thấy số liệu "Khoản phải thu khác" rất lớn và không được thuyết minh một cách chi tiết. Ví dụ như tại BCTC bán niên năm 2011, CTCK Phương Đông (ORS) có khoản phải thu khác hơn 1.400 tỷ đồng, chiếm 85% tổng tài sản; SME có Khoản phải thu khác là 577 tỷ đồng, chiếm gần 70% tổng tài sản; CTCK Châu Á - Thái Bình Dương (APS) có giá trị phải thu khác hơn 349 tỷ đồng, chiếm 48% tổng tài sản. Xem xét BCTC quý III/2011 của ORS, có thể thấy, Khoản phải thu khác này đã giảm đi đáng kể, xuống còn 312 tỷ đồng, nhưng vẫn chiếm tỷ trọng lớn (55%) tổng tài sản. Trong khi đó, tại thời điểm kết thúc quý III/2011, khoản phải thu khác của SME và APS không có sự thay đổi đáng kể so với kết thúc quý II/2011.

Một chuyên gia kiểm toán cho biết, Quyết định 15/2006/QĐ-BTC của Bộ Tài chính yêu cầu BCTC của các DN phải thuyết minh chi tiết theo đối tượng các khoản phải thu khác. Bên cạnh đó, việc các CTCK không thuyết minh chi tiết khoản phải thu lớn như vậy sẽ khiến NĐT không thể đo lường được khả năng thu hồi (chuyển thành tiền) của các khoản phải thu này và số lỗ tương ứng trong trường hợp công ty không thể thu hồi các khoản phải thu nói trên. Họ chỉ biết khi UBCK yêu cầu CTCK giải trình như trường hợp SME vừa qua!

Tuy nhiên, để xảy ra khoảng trống thông tin tiềm ẩn rủi ro nói trên, còn có trách nhiệm của các công ty kiểm toán, bởi trên BCTC bán niên năm 2011 của các CTCK đã nêu, ý kiến của kiểm toán độc lập đưa ra đều "sạch", có nghĩa là chấp nhận toàn phần BCTC. Thật khó thuyết phục nếu nói rằng, kiểm toán độc lập không biết về sự mập mờ của "Khoản phải thu khác"!

Cũng có ý kiến trong ngành kiểm toán biện minh, sở dĩ xảy ra sai sót trên bởi các công ty kiểm toán ngày càng chịu sức ép giảm phí kiểm toán, sức ép về thời gian phải hoàn thành công việc. Đặc biệt, đối với loại hình khách hàng có nhiều nghiệp vụ phức tạp như các CTCK, việc phát sinh sai sót trong quá trình thực hiện kiểm toán, lập báo cáo kiểm toán và đưa ý kiến kiểm toán là rất dễ xảy ra. Tuy nhiên, Chuẩn mực kiểm toán Việt Nam quy định, các công ty kiểm toán không được dựa vào sự hạn chế về mặt giá phí và thời gian để cắt giảm các thủ tục kiểm toán. Bởi vậy, các công ty kiểm toán không thể vô can khi để xảy ra khoảng trống thuyết minh BCTC như các ví dụ đã nêu.

Được biết, ngày 23/11 tới đây, Hội Kiểm toán viên hành nghề Việt Nam (VACPA) sẽ tổ chức tọa đàm, nhằm chỉ ra những sai sót phổ biến của các công ty kiểm toán, được phát hiện qua cuộc kiểm tra chất lượng thường niên năm 2011 với sự tham gia của đại diện Bộ Tài chính, UBCK và lãnh đạo các công ty kiểm toán. Đây là cơ hội để các công ty kiểm toán tự nhìn lại những hạn chế của mình, để nâng cao chất lượng dịch vụ, từ đó tạo niềm tin cho công chúng khi họ sử dụng BCTC được kiểm toán như là một công cụ công bố thông tin đáng tin cậy của các DN được kiểm toán.

Về phía các cơ quan quản lý, sau vụ việc tại SME, cần có những quy định cụ thể và chặt chẽ hơn đối với những thông tin tài chính đặc thù mà các CTCK phải công bố, đặc biệt trong điều kiện thị trường khó khăn như hiện nay. Việc làm này sẽ góp phần khôi phục niềm tin cho nhà đầu tư, tạo cơ sở để TTCK phát triển lành mạnh hơn.

(Theo Đầu tư chứng khoán)

Tuesday 15 November 2011

Chưa thể ban hành ngay hướng dẫn ghi nhận TPCĐ

Chưa thể ban hành ngay

hướng dẫn ghi nhận TPCĐ

Ông Đặng Thái Hùng

Sau khi bài viết: "Trái phiếu chuyển đổi: 'Lỗ hổng' kế toán và sai lệch trên BCTC" và bài: "Cận cảnh 'lỗ hổng' kế toán của TPCĐ" được đăng tải, ĐTCK đã nhận được ý kiến của một số DN và nhà đầu tư, muốn tìm hiểu rõ hơn về vấn đề này. ĐTCK đã có cuộc trao đổi với PGS.TS Đặng Thái Hùng, Vụ trưởng Vụ Chế độ kế toán và kiểm toán, Bộ Tài chính, xung quanh chủ đề trên.

Hương Giang

Tại Việt Nam hiện nay, việc hạch toán trái phiếu chuyển đổi (TPCĐ) của các DN sau khi phát hành công cụ tài chính này vẫn chưa tách bạch được công cụ nợ và công cụ vốn trên BCTC như chuẩn mực kế toán quốc tế. Nguyên nhân tại sao, thưa ông?

Phải khẳng định, TPCĐ là một công cụ tài chính còn tương đối mới ở Việt Nam. Việc hạch toán TPCĐ với tư cách một phần là công cụ nợ, một phần là công cụ vốn chủ sở hữu theo chuẩn mực kế toán quốc tế là rất phức tạp. Bởi vậy, chỉ ở những nước có nền kinh tế phát triển mới ban hành được chuẩn mực kế toán về công cụ tài chính, còn các nước đang phát triển thì hầu hết là chưa. Ở nước ta, dù nghiệp vụ liên quan đến công cụ tài chính mà cụ thể là TPCĐ đã phát sinh, nhưng do thiếu cơ chế tài chính mà chưa thể ban hành chuẩn mực kế toán về công cụ tài chính này.

Nếu căn cứ vào chuẩn mực kế toán quốc tế thì chúng tôi có thể hướng dẫn được cho DN. Tuy nhiên, cái khó là cơ chế, chính sách tài chính về nghiệp vụ này chưa rõ ràng, đầy đủ, mà theo trình tự ban hành chế độ, chính sách là phải có cơ chế, chính sách tài chính thì mới ban hành hướng dẫn về kế toán.

TPCĐ được DN phát hành từ 5 - 6 năm nay, nhưng vẫn chưa có hướng dẫn để DN hạch toán, tạo "lỗ hổng" sai lệch trên BCTC. Việc này có chậm trễ quá không?

Đúng là việc ban hành chính sách có hơi chậm, chưa theo kịp những phát sinh trên TTCK. Nhưng nói là "lỗ hổng" trong kế toán thì nặng nề quá. Nếu chế độ, chính sách ban hành rồi mà vẫn còn khoảng trống thì mới gọi là "lỗ hổng", còn đây hoàn toàn chưa có hướng dẫn kế toán...

Quan điểm của Vụ Chế độ kế toán và kiểm toán, Bộ Tài chính là khi có những vấn đề mới thì cần phải vươn tới, ban hành cơ chế, chính sách. Nhưng chúng tôi cũng gặp cái khó là ngoài việc thiếu cơ chế tài chính thì các chuẩn mực kế toán quốc tế là vô cùng phức tạp. Để có thể vận dụng vào Việt Nam, cần phải đầu tư công sức, thời gian, kinh phí cho chuyên gia đi nghiên cứu, học tập ở nước ngoài. Những vấn đề này không dễ dàng giải quyết được mà phải có sự giúp đỡ, tài trợ của các tổ chức quốc tế, sự hỗ trợ của các chuyên gia nước ngoài trong lĩnh vực kế toán. Lực lượng chuyên gia trong Vụ hiện rất thiếu, lại phải đảm nhiệm một khối lượng công việc cực lớn nên chưa thể làm được điều này.

Nếu như vậy thì Thông tư 210/2009/TT-BTC về việc hướng dẫn áp dụng chuẩn mực kế toán quốc tế về trình bày BCTC, thuyết minh thông tin với công cụ tài chính, áp dụng từ niên độ kế toán năm 2011, không có giá trị thực tiễn, thưa ông?

Thực ra Thông tư 210 được ban hành trong tình huống chúng ta phải thực hiện cam kết với Ngân hàng Phát triển châu Á về hội nhập kế toán, kiểm toán, đây là một điều kiện đi kèm của hiệp định về hỗ trợ khoản vay. Trước áp lực thực hiện lộ trình của cam kết hội nhập, Bộ Tài chính phải ban hành Thông tư 210 mang tính công bố việc áp dụng chuẩn mực kế toán quốc tế, chứ thực chất, việc ban hành Thông tư 210 chưa mang tính chất ban hành chuẩn mực. Thông tư này mới chỉ có hướng dẫn việc trình bày mà chưa có hướng dẫn ghi nhận (tính toán ra các con số), mà thực tế phải có phương pháp ghi nhận thì mới có thể trình bày được. Chính vì thế, thông tư này có thời gian chờ rất lâu (ban hành năm 2009, nhưng chỉ bắt đầu có hiệu lực từ năm 2011). Như trên tôi đã nói, việc ban hành hướng dẫn về hạch toán kế toán vẫn phải chờ có cơ chế, chính sách tài chính từ các đơn vị có chức năng quản lý về tài chính.

Tương tự, việc ban hành Thông tư hướng dẫn kế toán về công cụ tài chính phái sinh cũng chưa thể thực hiện. Mặc dù Vụ đã dự thảo Thông tư hướng dẫn thực hiện chuẩn mực kế toán quốc tế về công cụ tài chính dày cả trăm trang, với nhiều công sức trong mấy năm liền và cũng đã đưa ra xin ý kiến nhiều chuyên gia trong lĩnh vực tài chính, kế toán nhưng đến nay vẫn nằm trên bàn của lãnh đạo Bộ, chưa thể ký ban hành vì còn thiếu cơ chế về tài chính.

Theo ông, trong lúc chưa ban hành hướng dẫn hạch toán TPCĐ, DN nên thực hiện theo hướng nào?

Gần đây, có một DN đã gửi công văn đề nghị Vụ hướng dẫn về việc ghi nhận kế toán đối với TPCĐ. Vụ đã trình lãnh đạo Bộ Tài chính xin phương án hướng dẫn theo một trong hai hướng: một là, hướng dẫn ghi nhận theo quy định của chuẩn mực kế toán quốc tế; hai là, đợi có cơ chế chính sách tài chính rồi mới ban hành hướng dẫn kế toán. Lãnh đạo Bộ đã cho ý kiến là sẽ xử lý sau khi xin ý kiến của các bên liên quan là UBCK và Cục Tài chính DN. Hai cơ quan này đã thống nhất quan điểm là nên hướng dẫn cho DN cụ thể nói trên thực hiện chế độ kế toán trên cơ sở tuân thủ quy định của chuẩn mực kế toán quốc tế.

(Theo ĐTCK)

Nguồn: VACPA

Popular Posts