Monday 30 May 2011

Từ 1/8: Vi phạm hành chính kế toán phạt đến 30 triệu đồng

Đó là một trong những nội dung đáng chú ý tại Nghị định 39/2011/NĐ-CP sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 185/2004/NĐ-CP về xử phạt vi phạm hành chính (VPHC) trong lĩnh vực kế toán vừa được Chính phủ ban hành.

Theo Nghị định mới, hướng tăng mức phạt đối với các hành vi như: vi phạm quy định về chứng từ kế toán; về sổ kế toán; tài khoản kế toán; hành nghề kế toán...

Cụ thể, đối với hành vi lập chứng từ kế toán không đủ số liên theo quy định của mỗi loại chứng từ kế toán; lập hoá đơn bán hàng nhưng không giao hoá đơn bán hàng cho khách hàng theo quy định, nếu như trước đây bị phạt từ 1-5 triệu đồng thì theo quy định mới sẽ bị phạt từ 2-10 triệu đồng.

Với những hành vi giả mạo, khai man chứng từ kế toán, mức phạt sẽ tăng từ 5-20 triệu đồng lên 10-30 triệu đồng. Mức phạt từ 15-30 triệu đồng cũng sẽ được áp dụng thay cho mức phạt từ 10-20 triệu đồng đối với hành vi giả mạo sổ kế toán; cố ý để ngoài sổ kế toán tài sản của đơn vị hoặc tài sản có liên quan đến đơn vị...

Đặc biệt Nghị định cũng tăng thẩm quyền xử phạt cho các cơ quan. Cụ thể, Thanh tra viên Tài chính các cấp đang thi hành công vụ có quyền phạt tiền đến 500 nghìn đồng (quy định cũ là 200 nghìn đồng); Chánh thanh tra Sở Tài chính, Chánh Thanh tra Bộ Tài chính có quyền phạt tiền đến 30 triệu đồng (quy định cũ là 20 triệu đồng).

Nếu trước đây cấp xã chỉ được phạt tiền đến 500 nghìn đồng, theo quy định mới Chủ tịch UBND cấp xã có quyền phạt tiền đến 2 triệu đồng. Chủ tịch UBND cấp huyện, tỉnh cũng có quyền phạt tiền đến 30 triệu đồng thay vì mức 20 triệu đồng như trước kia. Nghị định mới sẽ có hiệu lực thi hành từ ngày 1/8/2011.


(Theo Efinance)

Lĩnh vực Kiểm toán: Còn nhiều bất cập

Sau khi Luật kiểm toán độc lập có hiệu lực, những sai phạm trong lĩnh vực kiểm toán không dừng lại ở chỗ nhắc nhở mà có thể là phạt tiền, rút giấy phép hành nghề, thậm chí xử lý hình sự. Đây chính là động thái mạnh mẽ của cơ quan chức năng nhằm tạo một thị trường kiểm toán lành mạnh.

Các chuyên gia cho rằng, với việc Luật kiểm toán độc lập có hiệu lực từ ngày 1/1/2012, đồng thời hai nghị định (hướng dẫn thi hành luật và hướng dẫn xử lý vi phạm trong lĩnh vực kiểm toán) cũng đang được nghiên cứu soạn thảo. Sau khi luật có hiệu lực, những sai phạm trong lĩnh vực kiểm toán không dừng lại ở chỗ nhắc nhở mà có thể là phạt tiền, rút giấy phép hành nghề, thậm chí xử lý hình sự. Với những động thái mạnh mẽ từ phía cơ quan nhà nước, hội nghề nghiệp hoạt động của các DN tư vấn tài chính kiểm toán tại VN sẽ minh bạch và trách nhiệm hơn.

Cuộc họp thường niên giám đốc các Cty kiểm toán (CTKT) với Bộ Tài chính và Hội kiểm toán viên hành nghề VN (VACPA) năm 2010/2011 mới đây đã chỉ ra rằng hoạt động của ngành kế toán kiểm toán còn nhiều bất cập. Bất cập lớn nhất là số lượng kiểm toán viên đã tăng mạnh trong năm 2010, nhưng vẫn chưa thể đáp ứng nhu cầu nhân sự trong ngành kiểm toán hiện nay. Mỗi năm đều có các CTKT thành lập mới và có nhiều người được cấp chứng chỉ kiểm toán viên. Tuy nhiên, số lượng kiểm toán viên đăng ký hành nghề lại không tăng tương ứng. Tính đến thời điểm 28/2/2011, có 49/152 CTKT chỉ có 3 kiểm toán viên. Ngoài ra, vẫn còn một số Cty thiếu kiểm toán viên nên chưa đủ điều kiện đăng ký hành nghề năm 2011. Tình trạng thiếu hụt này dẫn tới việc kiểm toán viên đã đăng ký hành nghề kiểm toán nhưng vẫn làm bán thời gian hoặc kiêm nhiệm ở các Cty khác, nên không có đủ cấp bậc soát xét hồ sơ kiểm toán. Do đó, ở các Cty này khó có thể đảm bảo chất lượng dịch vụ theo yêu cầu.

Tuy vậy, theo số liệu của Bộ Tài chính, mặc dù năm 2010 kinh tế vĩ mô gặp nhiều khó khăn nhưng hoạt động dịch vụ kiểm toán vẫn phát triển khả quan. Doanh thu toàn ngành đạt 2.743 tỉ đồng, tăng 25% so với năm 2009. Đặc biệt, một số Cty thuộc “Big 4” (nhóm 4 Cty hàng đầu) đã có lãi để bù đắp số lỗ của năm trước. Bốn DN trong nhóm này là đã có lãi 39 tỉ đồng, thay vì lỗ 96 tỉ đồng năm 2009.

Theo các chuyên gia, sở dĩ ngành kiểm toán đạt được kết quả trên là do lượng khách hàng năm 2010 tăng mạnh. Theo báo cáo của 149 Cty kiểm toán, năm qua có trên 29.000 khách hàng, tăng 12,2% so với năm 2009. Trong đó, số khách hàng là các Cty cổ phần, DN niêm yết tăng mạnh. Đội ngũ kiểm toán viên và nhân viên chuyên nghiệp cũng được bổ sung. Tính đến 31/12/2010, có 8.694 người làm việc trong các Cty kiểm toán (CTKT), trong đó có 1.264 người có chứng chỉ kiểm toán viên. Ngoài ra, có gần 800 người có chứng chỉ kiểm toán viên làm việc trong các lĩnh vực khác mà không đăng ký hành nghề kiểm toán. Về cơ cấu dịch vụ, hầu hết Cty đều chú ý đến dịch vụ kiểm toán báo cáo tài chính (chiếm đến 60% tổng doanh thu), tư vấn thuế, tài chính chỉ chiếm 20%, tư vấn quản lý 9%, các dịch vụ khác không đáng kể.

Tuy nhiên, qua kiểm tra chất lượng dịch vụ tại 20 Cty kiểm toán, nhiều tồn tại đã bộc lộ. Một số đơn vị, đặc biệt là các Cty mới thành lập, thường quá chú trọng vào việc phát triển khách hàng, khai thác hợp đồng; chưa quan tâm đúng mức đến chất lượng hồ sơ và báo cáo kiểm toán. Nguyên nhân chủ yếu là do thiếu kiểm toán viên, nên chất lượng hoạt động chưa đáp ứng yêu cầu thực tế và chưa đảm bảo tuân thủ các quy định hành nghề.

Một số Cty kiểm toán, được kiểm tra, chưa thực hiện đầy đủ và đúng quy định của hệ thống chuẩn mực kiểm toán VN hiện hành. Báo cáo tài chính được kiểm toán còn nhiều sai sót, thể hiện kiểm toán viên và ban giám đốc của Cty kiểm toán chưa nắm vững chuẩn mực, chế độ kế toán hiện hành, hoặc có sự dễ dãi, thỏa hiệp với khách hàng, khi không yêu cầu điều chỉnh những bút toán có giá trị cao hơn mức trọng yếu đã xác định, đồng thời cũng không nêu ý kiến trên báo cáo kiểm toán. Hồ sơ kiểm toán còn thiếu bằng chứng về các thủ tục đã thực hiện và chưa đủ căn cứ để làm cơ sở cho ý kiến kiểm toán.

Với 8 chương 64 điều, Luật kiểm toán độc lập quy định cơ quan quản lý nhà nước (Bộ Tài chính) cấp, điều chỉnh, thu hồi Giấy chứng nhận đủ điều kiện kinh doanh dịch vụ kiểm toán, đình chỉ kinh doanh dịch vụ kiểm toán cũng như thanh tra, kiểm tra giải quyết khiếu nại tố cáo và xử lý vi phạm trong lĩnh vực kiểm toán độc lập.

* Tiêu chuẩn trở thành kiểm toán viên là phải có năng lực hành vi dân sự đầy đủ, đạo đức tốt, có bằng tốt nghiệp đại học trở lên thuộc chuyên ngành tài chính, ngân hàng, kế toán, kiểm toán và phải có Chứng chỉ kiểm toán viên. Đối với Kiểm toán viên hành nghề phải có thời gian thực tế làm công tác kiểm toán 36 tháng trở lên và tham gia đầy đủ chương trình cập nhật kiến thức mới được đăng ký hành nghề.

* DN kiểm toán phải bố trí nhân sự có trình độ chuyên môn phù hợp. Ngoài ra, để bảo đảm thông tin cho kiểm toán, đơn vị được kiểm toán phải có nghĩa vụ cung cấp đầy đủ, chính xác, trung thực, kịp thời thông tin, không được có hành vi hạn chế phạm vi các vấn đề cần kiểm toán.

* Luật quy định DN kiểm toán phải có tối thiểu năm kiểm toán viên hành nghề. Người đại diện theo pháp luật, Giám đốc hoặc TGĐ của DN kiểm toán phải là kiểm toán viên hành nghề. Đối với Cty TNHH phải có ít nhất hai thành viên là kiểm toán viên hành nghề và phải đảm bảo mức vốn pháp định theo quy định của Chính phủ.

(Theo DDDN)

Sẽ kiểm tra các công ty kiểm toán

Trao đổi với DĐDN, ông Bùi Văn Mai - Phó Chủ tịch thường trực kiêm Tổng Thư ký Hội kiểm toán viên hành nghề VN (VACPA) chất lượng của kiểm toán độc lập VN chưa đáp ứng đầy đủ những quy định của Luật kiểm toán độc lập.

- Mỗi năm, các Cty kiểm toán mới thành lập ngày một nhiều và lượng kiểm toán viên cũng gia tăng. Tuy nhiên, số lượng kiểm toán viên đăng ký hành nghề lại không tăng tương ứng so với số lượng DN. Điều này có ảnh hưởng gì tới chất lượng kiểm toán, thưa ông ?

Thực tế số lượng kiểm toán viên và DN kiểm toán đều có tăng nhưng chưa đáp ứng nhu cầu xã hội. Đặc biệt, khi Luật kiểm toán độc lập có hiệu lực, mức độ thiếu này sẽ thể hiện rõ rệt hơn.

Hiện nay một Cty kiểm toán chỉ cần 3 người đã có thể hoạt động, nhưng khi áp dụng luật mới cần tới 5 người. Do vậy, số lượng kiểm toán viên sẽ đòi hỏi tăng trong thời gian tới. Tuy nhiên, các Cty kiểm toán vẫn có thời gian vì điều khoản này theo lộ trình phải tới 2014 mới phải thực thi.

- Trên thực tế, nhu cầu về dịch vụ kiểm toán độc lập ngày càng lớn, nhưng khả năng đáp ứng của Cty kiểm toán "nội" vẫn còn yếu. Ông có thể cho biết điều này sẽ ảnh hưởng thế nào tới khả năng cạnh tranh của DN kiểm toán VN ?

Tôi cho rằng lĩnh vực kiểm toán cũng giống như nhiều lĩnh vực khác, có những phân khúc khác nhau. Chẳng hạn các Cty đa quốc gia sẽ yêu cầu các Cty kiểm toán quốc tế phục vụ và họ chấp nhận phí cao. Trong khi đó, các DN VN có rất nhiều loại hình, chẳng hạn DN niêm yết ở thị trường chứng khoán yêu cầu các DN kiểm toán khá lớn, được Ủy ban chứng khoán nhà nước chấp thuận, trong khi các DN nhỏ lại chỉ cần các Cty kiểm toán nhỏ, gọn nhẹ. Điều kiện mỗi DN khác nhau nên nhu cầu kiểm toán cũng khác nhau.

- Về việc phát triển năng lực của các công ty kiểm toán độc lập, nhiều chuyên gia có ý kiến, nên liên kết các Cty kiểm toán nhỏ thành những DN lớn hoặc DN kiểm toán có thể trở thành thành viên của một hãng kiểm toán quốc tế. Ông nghĩ sao về điều này ?

Theo tôi, đây là một hướng đi đúng và có lợi cho DN VN. Cách đây 5-7 năm chúng tôi đã hướng các DN theo cách này, có những Cty ở mức độ trung bình có hướng mở rông quy mô bằng cách tăng kiểm toán viên và nhân viên. Hay các Cty nhỏ hơn có thể sáp nhập với nhau tạo nên một Cty có quy mô lớn hơn. Đây là xu hướng chung trên thị trường. Trong năm 2010 đã có 8 Cty nhỏ nhập thành 4 Cty lớn để tồn tại và phát triển, đủ điều kiện kiểm toán công ty niêm yết.

Ngoài ra, theo tôi việc trở thành thành viên của các tổ chức quốc tế cũng là một hướng tốt cho DN VN. Bởi khi trở thành thành viên của các hãng kiểm toán lớn, các DN sẽ được đầu tư kỹ thuật, chuyên gia... đặc biệt sẽ được kiểm soát chất lượng dịch vụ của các Cty VN. Đó là cách giúp các DN VN có thể nâng cao khá nhanh chất lượng dịch vụ cung ứng cho thị trường.

- Hiện tại, có tới 60% khách hàng của các Cty kiểm toán trong nước là kiểm toán theo luật định. Thị phần khách hàng tự nguyện đã tăng lên nhưng chưa đáng kể. Nhiều DN vẫn có khái niệm "bị kiểm toán" chứ không phải là "được kiểm toán", thưa ông ?

Trên thực tế, số lượng DN VN, nhất là DNNVV quan tâm tới hoạt động kiểm toán chưa nhiều.

Tôi cho rằng, thị trường sẽ vẫn tồn tại hai xu hướng, một là Nhà nước sẽ mở rộng diện các Cty bắt buộc phải kiểm toán, trong khi các DN không bắt buộc kiểm toán nhưng vẫn yêu cầu kiểm toán sẽ ngày một gia tăng. Đây là điều bình thường, nhất là khi chất lượng kiểm toán ngày càng tốt hơn.

Tính đến 28/2/2011, có 49/152 Cty KT chỉ có 3 kiểm toán viên
- Độc lập là nguyên tắc hành nghề và cũng là tiêu chuẩn đạo đức nghề nghiệp không thể thiếu được trong nghề kiểm toán. Nhưng đây lại là điểm yếu của ngành kiểm toán VN ?

Đúng, độc lập là nguyên tắc cơ bản nhất của nghề kiểm toán. Tuy nhiên theo tôi, độc lập ở đây không phải là tuyệt đối mà chỉ mang tính tương đối và định tính. Vấn đề này ở mỗi nước lại có quy định khác nhau, ở VN cũng có những quy định rất cụ thể về vấn đề này.

Tôi cho rằng, tính độc lập của kiểm toán viên ngày càng được nâng cao. Ví dụ, trong Luật kiểm toán độc lập của VN quy định anh không được kiểm toán một Cty niêm yết nếu anh mua cổ phiếu ở Cty đó, không kể giá trị là bao nhiêu. Trong khi đó, một số nước lại cho phép mua cổ phiếu dưới mức ảnh hưởng đáng kể đến tính độc lập của kiểm toán viên.

- Nhiều Cty kiểm toán đã chào mức phí khá thấp so với mức phí năm trước. Việc cạnh tranh này có hợp lệ không, thưa ông ?

Tôi cho rằng về mặt thị trường, các DN phấn đấu giảm giá là chuyện bình thường. Tuy nhiên, việc giảm giá phải trong khuôn khổ, tức là phải cân đối được thu, chi chứ không thể giảm giá để rồi lỗ. Mỗi Cty có chiến lược riêng, chẳng hạn với các khách hàng quen và đã có uy tín thì có thể tăng phí. Trong khi một số khách hàng mới, chưa có quan hệ gần gũi, nhưng vì lý do nào đó DN muốn nhận khách hàng đó thì có thể chào phí thấp nhưng vẫn phải đảm bảo chất lượng dịch vụ. Đây là điều bình thường của một DN, lấy bù trừ để phát triển. Quan trọng là tổng thu, chi vẫn đảm bảo và có lãi là được.

- Được biết sắp tới VACPA sẽ kiểm tra các Cty kiểm toán. Theo ông quy trình kiểm tra năm nay có điểm gì mới ?

Theo dự kiến quý III/2011 chúng tôi sẽ thực hiện kiểm tra. Năm 2010 chúng tôi đã chú trọng kiểm tra về chất lượng dịch vụ, cũng như chất lượng ý kiến của kiểm toán viên. Do vậy, số lượng các DN được kiểm tra cũng giảm so với các năm trước. Ngoài ra, chúng tôi cũng thực hiện chấm điểm các thủ tục kiểm toán, đồng thời xếp loại các Cty... do vậy chất lượng kiểm tra năm 2010 khá tốt. Năm 2011, chúng tôi sẽ tiếp tục kiểm tra theo hướng đó. Tuy nhiên số lượng Cty được kiểm tra có thể sẽ tăng hơn năm 2010. Năm 2011 dự kiến kiểm tra 25-30 DN kiểm toán.

- Xin cảm ơn ông !

ACCA đồng hành với ngành kiểm toán, kế toán Việt Nam

Bà Lucia Real Martin

(ĐTCK-online) So với nhiều nước ở châu Âu hay châu Mỹ, ngành kiểm toán Việt Nam vẫn còn rất non trẻ, song cũng đã đi được một chặng đường dài chỉ trong một thời gian ngắn. Có mặt tại Việt Nam từ năm 2002, Hiệp hội Kế toán công chứng Anh (ACCA) đã có nhiều đóng góp vào sự phát triển của ngành. Bà Lucia Real Martin, Giám đốc khu vực của ACCA, trao đổi với ĐTCK.

Bà đánh giá như thế nào về quá trình phát triển của ngành kiểm toán, kế toán Việt Nam, cũng như những hoạt động đồng hành của ACCA?

Chúng tôi đã làm việc chặt chẽ với Bộ Tài chính cũng như các hiệp hội trong nước như Hội Kế toán và kiểm toán, Hội Kế toán viên hành nghề Việt Nam hay hợp tác với các nhà làm luật như Tổng kiểm toán Việt Nam, giúp xây dựng một ngành kiểm toán hỗ trợ cho sự phát triển kinh tế. Chẳng hạn, kế hoạch tổ chức kỳ thi hợp tác giữa ACCA và Bộ Tài chính đang mang lại cho các kiểm toán viên khu vực công của Việt Nam cơ hội được đào tạo lên tiêu chuẩn quốc tế cao nhất có thể.

Với khoảng 2.000 kiểm toán viên có đủ tư cách nghề nghiệp đang hành nghề và khoảng 160 công ty kiểm toán đang hoạt động, ngành kiểm toán đang phát triển nhanh chóng tại Việt Nam tuy nhiên cung vẫn chưa đủ đáp ứng cầu. Luật Kiểm toán độc lập có hiệu lực từ tháng 1/2012 sẽ là cột mốc quan trọng đối với ngành kiểm toán Việt Nam. Việc cung cấp những phản hồi có tính xây dựng cho các nhà hoạch định chính sách là một phần quan trọng trong vai trò của chúng tôi tại Việt Nam và trên thế giới. Bên cạnh đó, bằng cách đào tạo một thế hệ kiểm toán viên, chúng ta có thể xây dựng một ngành kiểm toán bền vững tại Việt Nam.

ACCA sẽ tập trung vào những chương trình nào trong tương lai?

Để đảm bảo hỗ trợ đào tạo nghề nghiệp kế toán kiểm toán và phát triển ngành nghề, ACCA thực hiện xuyên suốt nhiều sự kiện, hoạt động và đào tạo khác nhau. ACCA thiết kế, phát triển và cung cấp các chương trình thích hợp cho Việt Nam nhằm tăng cường cơ hội tiếp cận các chuẩn đào tạo chuyên nghiệp cho kế toán viên.

Chúng tôi chủ trương mở ra cơ hội nghề nghiệp cho mọi người trong mọi lĩnh vực và xóa bỏ các rào cản do con người tạo ra, cũng như cải tiến nội dung đào tạo nhằm đáp ứng nhu cầu của cả học viên và nhà tuyển dụng. Ví dụ, Chương trình nền tảng kế toán, một chương trình đào tạo trao bằng cấp cơ bản mới, rất linh hoạt dành cho nhiều cấp độ đầu vào, nhằm đáp ứng nhu cầu của cả học viên và nhà tuyển dụng. Chương trình được triển khai sau khi tham khảo, bàn bạc chi tiết với các nhà tuyển dụng, tổ chức đào tạo, hội viên, học viên và các tổ chức, cơ quan nghề nghiệp kế toán khác. Chương trình sẽ tạo nền tảng vững chắc về tài chính và kế toán quản trị, cũng như cung cấp thêm một học phần về tính chuyên nghiệp và hành vi đạo đức hành nghề.

Bà có thể đưa ra vài lời khuyên dành cho các bạn trẻ, những người đang muốn theo đuổi ước mơ trở thành một kiểm toán viên quốc tế chuyên nghiệp?

Chúng tôi tin rằng, kiểm toán nên giữ vững yếu tố cốt lõi của việc đào tạo kế toán chuyên nghiệp. Nền tảng hoạt động của kiểm toán viên là sự phát triển triệt để các giá trị chuyên ngành, khả năng phán xét và tính đặt vấn đề, sẽ luôn giúp kế toán viên đạt được trình độ chuyên môn trong bất kỳ lĩnh vực nào.

Một điều rất quan trọng là các kiểm toán viên phải cam kết hành xử có đạo đức. Các kiểm toán viên có nhiều trách nhiệm đối với những công ty họ kiểm toán, họ không được hành động gây hại cho quá trình kiểm toán một công ty và danh tiếng của công ty đó. ACCA cam kết đào tạo những kế toán viên có đạo đức. Tất cả các thành viên của ACCA phải hoàn thành một bài kiểm tra đạo đức nghề nghiệp trước khi có thể trở thành thành viên.

Việt Nam nên áp dụng chính sách nào để nâng cao chất lượng ngành kiểm toán và giúp ngành này trở thành một công cụ thực sự mạnh mẽ để hỗ trợ các nhà đầu tư cũng như quá trình tăng trưởng kinh tế?

Trên thế giới, trong bối cảnh khủng hoảng tài chính hiện nay, chưa bao giờ vai trò của kiểm toán lại bị nghi ngờ như bây giờ. Thậm chí, tại những nơi có thị trường kiểm toán phát triển vẫn cần có những cải tiến. Bất chấp những lời chỉ trích, kiểm toán vẫn có thể đóng vai trò quan trọng trong việc thuyết phục công chúng tin vào báo cáo tài chính doanh nghiệp. Nếu không có lòng tin đó, nền kinh tế sẽ không thể tăng trưởng và phát triển một cách bền vững.

Chúng ta cũng nên nhớ rằng, kiểm toán độc lập mang tính tích cực sâu rộng và như một công cụ chống lại những việc làm tài chính sai trái: theo chuẩn kiểm toán, kiểm toán viên sẽ liên hệ với bộ phận làm luật nhằm tìm kiếm thông tin hỗ trợ hoạt động giám sát của họ, tách bạch theo yêu cầu của pháp luật trong việc công bố thông tin về khách hàng của họ, các thông tin này có thể liên quan đến tội phạm tài chính.

Kiểm toán viên và các nhà quản lý nên có mối quan hệ mật thiết để đảm bảo rằng không có hiểu lầm hay kỳ vọng thiếu thực tế nào. Bằng cách hợp tác với nhau, các kiểm toán viên Việt Nam và các nhà quản lý của họ có thể biến kiểm toán thành một công cụ hữu dụng để thu hút đầu tư vào Việt Nam.


(Theo ĐTCK)

20 năm kiểm toán độc lập, hành trình vì mục tiêu minh bạch

Xem hình

Là một bộ phận của nền kinh tế thị trường, việc hình thành và phát triển hoạt động kiểm toán độc lập 20 năm qua vừa là yêu cầu tất yếu khách quan, vừa là bộ phận cấu thành quan trọng của hệ thống công cụ quản lý vĩ mô nền kinh tế - tài chính.

Kiểm toán độc lập cũng thể hiện vai trò tích cực đối với việc phát triển kinh tế xã hội, thông qua việc cung cấp dịch vụ kiểm toán báo cáo tài chính (BCTC) và các dịch vụ có liên quan cho các đối tượng theo luật định hoặc theo yêu cầu của tổ chức và cá nhân.

Tăng trưởng mạnh qua các năm

Theo Chiến lược phát triển ngành kiểm toán độc lập, dự kiến từ năm 2001 đến năm 2010 sẽ có 100 doanh nghiệp kiểm toán nhưng trên thực tế đến tháng 12/2010 đã có 162 doanh nghiệp (vượt trên 60%) và đến nay cả nước có 165 doanh nghiệp kiểm toán đang hoạt động gồm 154 công ty TNHH, 5 doanh nghiệp 100% vốn đầu tư nước ngoài, 2 doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài và 4 công ty hợp danh.

Doanh thu toàn ngành kiểm toán độc lập năm 2000 là 281 tỷ đồng, năm 2005 là 622 tỷ đồng (tăng 220% so với năm 2000), năm 2010 là 2.743 tỷ đồng (tăng 25,2% so với năm 2009). Lợi nhuận sau thuế toàn ngành kiểm toán năm 2010 đạt 89,473 tỷ đồng.

Đạt được kết quả trên là do đội ngũ kiểm toán viên (KTV) ngày càng lớn mạnh. Từ năm 1991 đến tháng 4/1994, Việt Nam chưa có người có chứng chỉ KTV, người ký báo cáo kiểm toán là giám đốc doanh nghiệp kiểm toán. Tháng 10/1994, lần đầu tiên Bộ Tài chính tổ chức học, thi sát hạch và cấp chứng chỉ đặc cách cho 49 người đủ điều kiện, tiêu chuẩn KTV chuyên nghiệp. Đến tháng 3/2011, ở Việt Nam có gần 600 người có chứng chỉ KTV nước ngoài do thi cử và gần 100 người có chứng chỉ KTV nước ngoài do được thừa nhận.

Bằng chất lượng dịch vụ, vị thế của ngành kiểm toán độc lập được nâng cao thể hiện qua đối tượng khách hàng ngày càng đa dạng và xã hội quan tâm đến hoạt động kiểm toán độc lập. Đến 31/12/2010, xét về cơ cấu khách hàng thì các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài chiếm 34%; DNNN chiếm 13%; công ty TNHH, cổ phần, tư nhân chiếm 42%; đơn vị hành chính sự nghiệp, tổ chức đoàn thể xã hội chiếm 9%; dự án quốc tế chiếm 2%.

Cùng với sự phát triển về số lượng và quy mô từng công ty, các dịch vụ do các doanh nghiệp kiểm toán cung cấp đã không ngừng được đa dạng hóa theo hướng mở rộng dịch vụ kiểm toán và các dịch vụ đảm bảo (như kiểm toán BCTC, kiểm toán hoạt động, kiểm toán tuân thủ và kiểm toán về những công việc đặc biệt, kiểm toán báo cáo quyết toán dự án hoàn thành, công tác soát xét BCTC...); mở rộng dịch vụ tư vấn (như tư vấn kế toán, tài chính, tư vấn quản lý, tư vấn thuế, tư vấn đầu tư, tư vấn sáp nhập, cổ phần hoá, giải thể doanh nghiệp...), dịch vụ tổng hợp thông tin tài chính, dịch vụ tin học, định giá tài sản, dịch vụ tuyển dụng nhân viên, đào tạo bồi dưỡng nghiệp vụ, cung cấp thông tin. Trong các dịch vụ trên, dịch vụ kiểm toán BCTC chiếm tỷ trọng lớn nhất. Dịch vụ kiểm toán báo cáo quyết toán dự án hoàn thành tuy rất quan trọng và cần thiết nhưng chưa chiếm tỷ trọng cao. Các dịch vụ khác như tư vấn tài chính, thuế, kế toán, tư vấn quản lý, định giá tài sản... ngày càng được mở rộng, doanh thu ngày càng lớn.

Sau 20 năm hoạt động, thông qua dịch vụ kiểm toán và các dịch vụ có liên quan, đặc biệt là kiểm toán BCTC, các công ty đã góp phần giúp các doanh nghiệp, tổ chức, các dự án quốc tế nắm bắt được kịp thời, đầy đủ và tuân thủ đúng các chính sách kinh tế, tài chính, loại bỏ được chi phí bất hợp lý, tạo lập được thông tin tin cậy, từng bước đưa công tác quản lý tài chính, kế toán trong các doanh nghiệp vào nề nếp... Hoạt động kiểm toán độc lập đã khẳng định được vị trí trong nền kinh tế thị trường, được doanh nghiệp và xã hội thừa nhận và đã góp phần quan trọng trong việc làm lành mạnh hoá môi trường đầu tư và nền tài chính quốc gia.

Một thành tựu rất quan trọng có ý nghĩa phát triển chiến lược ngành nghề kiểm toán là hệ thống văn bản pháp luật, chuẩn mực kiểm toán đã được xây dựng và không ngừng hoàn thiện. Hoạt động kiểm toán độc lập ở Việt Nam bắt đầu hình thành từ năm 1991 nhưng phải đến năm 1994, văn bản pháp luật đầu tiên về kiểm toán độc lập mới được ban hành là Nghị định 07-CP ngày 29/1/1994 ban hành Quy chế về kiểm toán độc lập trong nền kinh tế quốc dân. Sau đó các văn bản pháp luật khác gồm 3 nghị định, 16 quyết định và các thông tư hướng dẫn về kiểm toán độc lập lần lượt được ban hành, tạo hành lang pháp lý cho hoạt động kiểm toán độc lập Việt Nam.

Ngoài ra, từ năm 1999 đến năm 2005, Bộ Tài chính đã xây dựng và ban hành hệ thống 38 Chuẩn mực kiểm toán và Chuẩn mực đạo đức nghề nghiệp cho hoạt động kiểm toán độc lập. Một sự kiện quan trọng là, sau đúng 20 năm hoạt động kiểm toán độc lập tại Việt Nam, Luật Kiểm toán độc lập số 67/2011/QH12 đã được Quốc hội thông qua ngày 29/03/2011. Đây là văn bản pháp luật cao nhất về kiểm toán độc lập lần đầu tiên được ban hành tại Việt Nam, đã nâng cao vị thế của kiểm toán độc lập, đặt cơ sở pháp lý bền vững cho sự phát triển nghề nghiệp này trong tương lai. Về cơ bản, Luật Kiểm toán độc lập năm 2011 đã tiếp cận, phù hợp với thông lệ quốc tế và điều kiện thực tế tại Việt Nam, tạo cơ sở pháp lý cho việc tiếp tục thành lập và hoạt động của các tổ chức kiểm toán độc lập.

Mặc dù đạt được những kết quả kể trên nhưng hoạt động kiểm toán độc lập 20 năm qua vẫn còn những hạn chế. Quy mô thị trường kiểm toán hiện nay còn nhỏ, chưa tương xứng với tiềm năng và tốc độ tăng trưởng nền kinh tế, chưa đáp ứng được yêu cầu của xã hội. Bên cạnh đó, trình độ tổ chức kinh doanh dịch vụ kiểm toán của các doanh nghiệp kiểm toán còn hạn chế; sự cạnh tranh ở một số doanh nghiệp kiểm toán còn có biểu hiện thiếu lành mạnh vì lợi ích cục bộ; khách hàng tự nguyện kiểm toán còn ít; số lượng kiểm toán viên hiện có còn thiếu và chất lượng đội ngũ kiểm toán viên hiện nay chưa đáp ứng được yêu cầu của hội nhập kinh tế quốc tế; chất lượng dịch vụ của các doanh nghiệp kiểm toán nói chung tuy có nhiều tiến bộ nhưng vẫn còn khoảng cách so với yêu cầu và còn rất khó khăn để được khu vực và quốc tế thừa nhận.

Định hướng phát triển

Với những giá trị nền tảng tạo dựng được trong 20 năm qua, ngành kiểm toán độc lập Việt Nam định hướng đến năm 2020 phải tập trung nâng cao năng lực chuyên môn và chất lượng dịch vụ nhằm giảm thiểu rủi ro nghề nghiệp, nâng cấp và hoàn thiện hệ thống văn bản pháp luật, tổ chức quản lý, đầu tư công nghệ, kỹ thuật dịch vụ như chuẩn mực, quy trình, kỹ thuật kiểm toán, kiểm soát chất lượng dịch vụ cung cấp. Về quy mô, tiếp tục tăng thêm số lượng KTV và doanh nghiệp kiểm toán; mở rộng quy mô từng công ty; tăng nhanh lực lượng kiểm toán viên, mở rộng số lượng khách hàng, đa dạng hóa dịch vụ cung cấp, đạt tốc độ tăng trưởng cao về doanh thu và lợi nhuận... Tốc độ tăng trưởng đạt bình quân từ 20% - 30%/năm về doanh thu.

Để đạt được mục tiêu trên, về phía cơ quan quản lý cần ban hành đầy đủ, đồng bộ văn bản hướng dẫn Luật Kiểm toán độc lập, công bố mới chuẩn mực kiểm toán và các tài liệu hướng dẫn chuyên môn nghiệp vụ. Các doanh nghiệp cần mở rộng thị trường kiểm toán và tư vấn đến tất cả các loại hình doanh nghiệp thuộc mọi lĩnh vực và mọi thành phần kinh tế, tăng số lượng, mở rộng quy mô, nâng cao chất lượng dịch vụ cung cấp của các doanh nghiệp kiểm toán, phát triển nhanh nguồn nhân lực cả về số lượng và chất lượng, nâng cao năng lực và phát huy thế mạnh của các doanh nghiệp kiểm toán, góp phần công khai minh bạch thông tin kinh tế tài chính, thực hành tiết kiệm, chống lãng phí, lành mạnh hóa môi trường đầu tư nhằm ngăn ngừa vi phạm pháp luật, phục vụ có hiệu quả cho quản lý điều hành kinh tế tài chính của Nhà nước và hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp.

PGS.TS Trần Văn Tá, Chủ tịch Hội kiểm toán viên hành nghề Việt Nam (VACPA)

(Theo ĐTCK)

Môi trường kiểm toán trong sạch sẽ thúc đẩy thu hút đầu tư nước ngoài

Xem hình
Ông Rob Thomason, CPA Australia
Là một trong những hiệp hội kế toán lớn nhất, uy tín nhất và được công nhận rộng rãi nhất trên thế giới, với bề dày lịch sử 125 năm, CPA Australia đã hiện diện tại Việt Nam từ năm 2008. Nhân dịp kỷ niệm 20 năm kiểm toán độc lập tại Việt Nam, ĐTCK đã có cuộc trao đổi với ông Rob Thomason, Phó tổng giám đốc phụ trách phát triển kinh doanh toàn cầu của CPA Australia.

Ông đánh giá thế nào về vai trò của ngành kế toán - kiểm toán ở những nước đang phát triển như Việt Nam?

Vai trò của ngành kế toán - kiểm toán ở những nền kinh tế đang phát triển là cung cấp các báo cáo minh bạch, rõ ràng, nhằm tạo niềm tin cho các tổ chức, doanh nghiệp thuộc khối nhà nước và khối tư nhân để thu hút mạnh mẽ sự đầu tư.

Vốn đầu tư là mạch máu của những nền kinh tế đang phát triển như Việt Nam. Các báo cáo tài chính minh bạch sẽ thu hút nhà đầu tư đầu tư vốn vào Việt Nam. Sau cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu, cạnh tranh trong thị trường vốn toàn cầu trở nên rất quan trọng. Các báo cáo tài chính và môi trường kiểm toán trong sạch, chặt chẽ và đạt yêu cầu quốc tế sẽ là cơ sở quan trọng để thu hút nguồn đầu tư nước ngoài và mở ra thị trường quốc tế cho các doanh nghiệp Việt Nam.

Hoạt động kiểm toán độc lập tại Việt Nam có tiềm năng như thế nào, theo ông?

Chúng ta có thể thấy rõ ràng rằng, Chính phủ Việt Nam đã ghi nhận tiềm năng của ngành kế toán, ngành kiểm toán độc lập, cũng như tầm quan trọng của sự minh bạch trong các báo cáo tài chính và của ngành kiểm toán. Các báo cáo tài chính tại Việt Nam đã có những bước tiến lớn trong những năm qua cùng với sự phát triển của hệ thống luật và sự ra đời của nhiều tổ chức nghề nghiệp.

Luật Kiểm toán độc lập được thông qua vào tháng 3/2011 là một cột mốc đáng ghi nhận. Chúng tôi tự hào đóng góp một phần nhỏ vào nỗ lực to lớn của Hội Kiểm toán viên hành nghề Việt Nam (VACPA), Bộ Tài chính và các ban, ngành liên quan nhằm đạt được thành tựu này. CPA Australia đã chia sẻ quan điểm, kinh nghiệm tại Úc và trên thế giới nhằm góp phần phát triển bộ luật này. Sẽ phải mất một khoảng thời gian nhất định để hệ thống luật mới được triển khai một cách hoàn chỉnh. Tuy nhiên, chúng tôi kỳ vọng rằng, Việt Nam sẽ nhận thấy rõ lợi ích to lớn của việc áp dụng Luật trong những năm tới.

Theo ông, Việt Nam nên làm gì để ngành kế toán - kiểm toán trong nước bắt kịp với ngành kế toán - kiểm toán trên thế giới?

Tiếp cận với các chứng chỉ quốc tế được công nhận như CPA Australia là rất quan trọng đối với các kế toán viên muốn làm việc trong môi trường quốc tế. Việt Nam có một nền tảng giáo dục vững chắc và các cơ quan, hiệp hội kế toán vững mạnh. Điều quan trọng bây giờ là những tổ chức này sẽ phải phát huy thế mạnh thông qua sự đổi mới và phát triển của các luật định. Chúng tôi mong muốn mang chương trình CPA đến gần hơn với các kế toán viên Việt Nam, đồng thời hợp tác với các hiệp hội kế toán để đạt được sự công nhận lẫn nhau về bằng cấp.

Chúng tôi đánh giá cao việc tiếp tục thúc đẩy sự phát triển của ngành kế toán, cũng như tăng cường hợp tác với các tổ chức kế toán quốc tế, trong khi vẫn giữ được sự độc lập của ngành kế toán nội địa.

Trong sứ mệnh nâng cao chất lượng ngành kế toán - kiểm toán Việt Nam, CPA Australia đã đạt được những gì sau 3 năm hoạt động tại Việt Nam?

Trong gần 3 năm có mặt tại Việt Nam, CPA Australia đã có nhiều hỗ trợ nhằm thúc đẩy sự phát triển của ngành kế toán tại Việt Nam như đã trao hơn 120 học bổng cho các công ty Big Four, Kiểm toán Nhà nước Việt Nam, các hiệp hội, công ty kế toán - kiểm toán hàng đầu trong nước và các trường đại học đối tác, nhằm giúp các kế toán viên Việt Nam tiếp cận với chứng chỉ kế toán được công nhận quốc tế.

Chúng tôi cũng thiết lập được mối quan hệ tốt với các cơ quan như Kiểm toán Nhà nước, Bộ Tài chính, VACPA, VAA, các công ty kế toán - kiểm toán, các doanh nghiệp và các trường đại học hàng đầu Việt Nam. Thông qua biên bản ghi nhớ đã được ký kết với Đại học Kinh tế Quốc dân Hà Nội, Đại học Ngân hàng TP. HCM, Đại học Kinh tế TP. HCM, Đại học RMIT Việt Nam, Học viện Tài chính (Hà Nội), nhiều hoạt động hỗ trợ đã được triển khai tại các trường như hoạt động phát triển nghề nghiệp, chia sẻ kiến thức, tài trợ cho các sự kiện của sinh viên, trao học bổng, tổ chức các buổi hội thảo, hội nghị và cung cấp cơ hội nghiên cứu cho các giáo sư.

Đối với các hội viên CPA Australia, hàng quý chúng tôi tổ chức các buổi gặp gỡ hội viên nhằm giúp họ cập nhật kiến thức trong ngành. Như vậy, với các mối quan hệ mạnh mẽ tại thị trường Việt Nam và trong khu vực châu Á - Thái Bình Dương, CPA Australia có thể mang lại nhiều giá trị cho hội viên của mình, bất kể họ đang sống ở đâu.

(Theo ĐTCK)

Đại lễ kỷ niệm 20 năm thành lập ngành kiểm toán độc lập

Xem hình

Hôm nay, ngày 26 tháng 05 năm 2011, Bộ Tài chính tổ chức đại lễ kỷ niệm 20 năm thành lập ngành kiểm toán độc lập tại Việt Nam. Với hai công ty kiểm toán cùng thành lập đầu tiên trong ngày 13 tháng 05 năm 1991.

Nhân đại lễ kỷ niệm, Phó Thủ tuớng thường trực Chính phủ Nguyễn Sinh Hùng đã gửi thư chúc mừng. Ông tin tưởng rằng, với sự nỗ lực của toàn thể cán bộ nhân viên, ngành kiểm toán độc lập sẽ trưởng thành và phát triển mạnh mẽ.

Tham dự lễ kỷ niệm có Bộ trương Bộ Tài chính Vũ Văn Ninh, Thứ trưởng Bộ Tài chính Trần Xuân Hà, lãnh đạo Hội Kiểm toán viên hành nghề Việt Nam (VACPA), và các thế hệ lãnh đạo Bộ Tài chính.



Mở đầu lễ kỷ niệm, toàn thể hội trường được xem bản clip các sự kiện nổi bật trong ngành kiểm toán độc lập trong vòng 20 năm qua. Tiếp theo là các bài phát biểu của Chủ tịch VACPA, nguyên thứ trương Bộ Tài chính Trần Văn Tá, Bộ trương Vũ Văn Ninh, và các đại diện của Deloitte, ACCA, CPA Australia, và Học viện Ngân hàng.



Trong lễ kỷ niệm, đại diện Bộ Tài chính cũng công bố quyết định tặng thưởng Huân chương lao động hạng ba cho VACPA, bằng khen của Thủ tướng Chính phủ và Bộ trưởng Bộ Tài chính cho các tập thể và cá nhân đã có nhiều thành tích trong xây dựng và phát triển thị trường dịch vụ Kiểm toán độc lập.


Nhận bằng khen của Bộ Tài chính về thành tích đóng góp cho sự phát triển của ngành kiểm toán


Các thế hệ lãnh đạo Bộ Tài chính tới tham dự lễ kỷ niệm

KỶ NIỆM 20 NĂM KIỂM TOÁN ĐỘC LẬP (1991-2011)

PHÁT TRIỂN HOẠT ĐỘNG KIỂM TOÁN ĐỘC LẬP

NHẰM TĂNG CƯỜNG CÔNG KHAI, MINH BẠCH

HỆ THỐNG TÀI CHÍNH


Trần Xuân Hà

Thứ trưởng Bộ Tài chính

Kể từ khi ra đời 2 công ty kiểm toán (Công ty VACO và Công ty AASC) đến nay, hoạt động kiểm toán độc lập đã có 20 năm hoạt động và phát triển. Nhìn lại thời gian qua cho thấy Kiểm toán độc lập đã đạt được những kết quả quan trọng, đáng khích lệ, song cũng còn một số những hạn chế, tồn tại:

Về những kết quả đã đạt được

Một là, hành lang pháp lý cho hoạt động kiểm toán độc lập đã được xây dựng và hoàn thiện phù hợp với từng giai đoạn phát triển của nền kinh tế.

Nếu như Nghị định 07/CP ngày 29/1/1994 của Chính phủ mới chỉ ban hành Quy chế về kiểm toán độc lập thì Nghị định 105/NĐ-CP năm 2004 đã tạo ra hành lang pháp lý mới cho hoạt động kiểm toán độc lập. Theo đó Bộ Tài chính đã xây dựng, ban hành hệ thống 38 Chuẩn mực kiểm toán và Chuẩn mực đạo đức nghề nghiệp. Nhận thức được tầm quan trọng của Kiểm toán độc lập, Bộ Tài chính đã chủ trì nghiên cứu trình Chính phủ và trình Quốc hội ban hành Luật Kiểm toán độc lập, tạo ra vị thế pháp lý cao cho hoạt động này, từ đó tiếp tục phát triển Kiểm toán độc lập trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở nước ta.

Hai là, các Tổ chức kiểm toán độc lập, các kiểm toán viên hành nghề đã được mở rộng, nâng cao cả về quy mô cũng như chất lượng nghiệp vụ.

Từ chỗ chỉ có 2 doanh nghiệp kiểm toán (Năm 1991) đến nay đã có 165 doanh nghiệp kiểm toán, bao gồm cả các doanh nghiệp kiểm toán lớn của nước ngoài. Các kiểm toán viên hành nghề từ 49 kiểm toán viên được cấp giấy chứng nhận đặc cách năm 1994 đến nay đã có hơn 2000 kiểm toán viên, trong đó có gần 1300 kiểm toán viên đủ điều kiện hành nghề trong các doanh nghiệp kiểm toán.

Trên cơ sở đó các doanh nghiệp kiểm toán, các Kiểm toán viên đã cung cấp dịch vụ kiểm toán báo cáo tài chính, kiểm toán hoạt động, kiểm toán tuân thủ cũng như cung cấp dịch vụ tư vấn (như tư vấn kế toán, tài chính, tư vấn thuế, đầu tư, cấu trúc lại doanh nghiệp…). Các dịch vụ này đã tạo ra một môi trường ngày càng công khai, minh bạch, giúp cho các doanh nghiệp tăng cường quản trị doanh nghiệp, giúp cho các nhà đầu tư có thêm thông tin cần thiết để quyết định đầu tư, giúp cho cơ quan quản lý Nhà nước trong việc quản lý vốn, tài sản, góp phần thực hiện chính sách tiết kiệm, phòng chống lãng phí.

Ba là, với sự ra đời kịp thời của Hội kiểm toán viên hành nghề Việt Nam (VACPA) và các hoạt động của Hội đã góp phần phát triển hoạt động Kiểm toán độc lập, cùng với cơ quan quản lý Nhà nước thực hiện vai trò quản lý, giám sát chất lượng kiểm toán viên cũng như chất lượng dịch vụ.

Từ năm 2005, kể từ khi thành lập đến nay, Hội đã thực hiện tốt vai trò đào tạo, cập nhật kiến thức cho kiểm toán viên, rà soát tiêu chuẩn và thực hiện đăng ký hành nghề cho kiểm toán viên, kiểm tra chất lượng dịch vụ kiểm toán, cũng như tham gia xây dựng văn bản quy định pháp luật về kế toán và kiểm toán. Bộ Tài chính đã quy định giao cho Hội thực hiện soạn thảo Chuẩn mực kiểm toán Việt Nam và xây dựng lộ trình tăng cường vai trò của Hội theo thông lệ quốc tế và phù hợp với điều kiện của Việt Nam. Hội thực sự trở thành ngôi nhà chung của doanh nghiệp kiểm toán, của kiểm toán viên hành nghề, là cầu nối giữa cơ quan quản lý Nhà nước với doanh nghiệp kiểm toán, cũng như kiểm toán viên hành nghề.

Bốn là, thị trường dịch vụ kiểm toán đã hình thành, phát triển và được xã hội thừa nhận.

Việc phát triển thị trường dịch vụ kiểm toán đã trở thành thị trường dịch vụ tài chính, thị trường này đã có ý nghĩa quan trọng trong việc hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường ở nước ta, đồng thời đã bước đầu thực thi những cam kết trong khu vực ASEAN để tiến tới hội nhập với thị trường dịch vụ kế toán, kiểm toán quốc tế. Nhiều kiểm toán viên hành nghề Việt Nam đã có chứng chỉ quốc tế và cung cấp dịch vụ này cho các tổ chức, doanh nghiệp nước ngoài ở Việt Nam cũng như ở một số nước khác.

Về những mặt hạn chế

Qua 20 năm hoạt động cho thấy dịch vụ kiểm toán độc lập vẫn còn những hạn chế nhất định:

Thứ nhất, quy định pháp luật về kiểm toán độc lập vẫn chưa thực sự hoàn chỉnh, đặc biệt là việc cập nhật các chuẩn mực quốc tế.

Thứ hai, quy mô và chất lượng kiểm toán độc lập vẫn chưa đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội trong bối cảnh hội nhập quốc tế, đặc biệt là chất lượng của báo cáo kiểm toán chưa cao.

Thứ ba, thị trường kiểm toán độc lập chưa thực sự hoàn chỉnh, trong đó yêu cầu bắt buộc thực hiện dịch vụ kiểm toán vẫn trội hơn so với nhu cầu tự nguyện.

Trong nền kinh tế thị trường, dịch vụ kiểm toán có ý nghĩa hết sức quan trọng, nó là một sự chứng thực của một tổ chức độc lập về tính trung thực, hợp lý của các báo cáo tài chính trên phương diện trọng yếu, nó là sự đánh giá về sự tuân thủ quy định pháp luật cũng như đánh giá chất lượng hoạt động của một doanh nghiệp, dự án đầu tư hay bất kỳ một hoạt động tài chính nào. Bởi vậy cần phải coi trọng ngành nghề kiểm toán cũng như giá trị của báo cáo kiểm toán.

Phát triển quy mô, chất lượng của hoạt động kiểm toán độc lập là nhiệm vụ của cơ quan quản lý Nhà nước, Hội nghề nghiệp, doanh nghiệp kiểm toán cũng như từng kiểm toán viên. Cụ thể là:

- Cần cập nhật, hoàn chỉnh Chuẩn mực kiểm toán Việt Nam theo thông lệ quốc tế và điều kiện thực tế của nền kinh tế - xã hội đất nước. Để triển khai nhiệm vụ này, cơ quan quản lý Nhà nước và Hội nghề nghiệp sẽ phối hợp xây dựng lộ trình thực hiện và ban hành các Chuẩn mực kiểm toán để làm căn cứ, thước đo trong quá trình kiểm toán cũng như lập báo cáo kiểm toán. Đó cũng là chuẩn mực cho các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế phải tuân thủ.

- Nâng cao số lượng và chất lượng đội ngũ kiểm toán viên và kiểm toán viên hành nghề, theo đó cần cập nhật bộ tài liệu, chương trình đào tạo kiểm toán viên, rà soát điều kiện kiểm toán viên hành nghề để có cơ sở cho việc đào tạo, thi cấp chứng chỉ hành nghề. Các kiểm toán viên của Việt Nam cần phải phấn đấu để đạt được điều kiện ngang tầm với kiểm toán viên quốc tế, có như vậy thì hoạt động kiểm toán mới phát triển được ngay tại nước mình và mở rộng ra các nước khác.

- Cần phải có biện pháp kiểm soát chất lượng đội ngũ kiểm toán viên hành nghề và kiểm soát chất lượng báo cáo kiểm toán. Trong việc thực thi nhiệm vụ này có sự kết hợp giữa cơ quan quản lý Nhà nước và Hội nghề nghiệp. Thứ nhất là Hội nghề nghiệp cần quản lý hội viên của mình, đảm bảo mục đích tôn chỉ của Hội và đạo đức nghề nghiệp của kiểm toán viên. Hội cần tăng cường kiểm tra, giám sát chất lượng và phối hợp với cơ quan quản lý Nhà nước xử lý các trường hợp vi phạm. Thứ hai, là cơ quan quản lý Nhà nước thông qua Hội để kiểm tra, rà soát chất lượng đội ngũ kiểm toán viên, chất lượng báo cáo kiểm toán. Bên cạnh đó, phải phát huy vai trò của cơ quan chủ sở hữu vốn (Nhà nước đối với công ty Nhà nước; Đại hội đồng cổ đông, Hội đồng quản trị đối với công ty cổ phần; Hội đồng thành viên, chủ doanh nghiệp với công ty TNHH 1 thành viên) cũng như công chúng để cùng nhau giám sát hoạt động này.

- Cần có biện pháp khuyến khích phát triển dịch vụ kiểm toán, theo đó các cơ quan chủ sở hữu, người sử dụng báo cáo kiểm toán cần coi trọng sử dụng dịch vụ này. Trách nhiệm, quyền hạn của doanh nghiệp kiểm toán, của đơn vị được kiểm tra đã được quy định rõ trong Luật Kiểm toán độc lập và có ràng buộc trong hợp đồng kiểm toán. Các bên liên quan phải có trách nhiệm để hoạt động kiểm toán độc lập được thực hiện một cách minh bạch.

Với việc ban hành Luật Kiểm toán độc lập và chương trình thực hiện trong thời gian tới, hy vọng rằng hoạt động kiểm toán độc lập của Việt Nam sẽ ngày càng phát triển, góp phần quan trọng trong việc công khai, minh bạch hệ thống tài chính cũng như tất cả các hoạt động kinh tế - xã hội của đất nước chúng ta./.


(Theo VACPA)

HỘI NGHỊ TỔNG KẾT VÀ LỄ KỶ NIỆM 20 NĂM KIỂM TOÁN ĐỘC LẬP

Chiều ngày 26/4/2011, Bộ Tài chính phối hợp với Hội kiểm toán viên hành nghề Việt Nam (VACPA) đồng tổ chức Hội nghị Tổng kết và Lễ kỷ niệm 20 năm Kiểm toán độc lập (KTĐL) tại Hội trường lớn Tầng 10 Bộ Tài chính. Khách mời tham dự Hội nghị có Ông Vũ Văn Ninh - Ủy viên Trung ương Đảng, Bộ trưởng Bộ Tài chính, Ông Trần Xuân Hà - Thứ trưởng Bộ Tài chính, Ông Hồ Tế, Nguyên Bộ trưởng và các Ông, Bà nguyên là Thứ trưởng Bộ Tài chính, các quan chức lão thành của Bộ Tài chính, đại diện các cơ quan nhà nước, các học viện, trường đại học, các tổ chức nghề nghiệp trong và ngoài nước và hơn 300 kiểm toán viên, hội viên VACPA trong cả nước về dự…Phó Thủ tướng Thường trực Nguyễn Sinh Hùng vì bận công việc không đến tham dự được nhưng cũng đã gửi Thư chúc mừng Hội nghị. Đông đảo phóng viên từ các cơ quan báo chí, phát thanh, truyền hình đã đến dự để đưa tin về sự kiện quan trọng này.

Buổi lễ được bắt đầu với một đoạn video clip dài 10 phút với những tư liệu và hình ảnh tổng kết chặng đường 20 năm KTĐL. Tiếp theo, Ông Trần Văn Tá, nguyên Thứ trưởng thường trực Bộ Tài chính, Chủ tịch Hội kiểm toán viên hành nghề Việt Nam đã đọc Báo cáo Tổng kết 20 năm hoạt động KTĐL và định hướng phát triển đến năm 2020. Báo cáo đã nêu ra những thành tựu cũng như những tồn tại của ngành KTĐL trong 20 năm qua đồng thời vạch ra phương hướng để phát triển ngành trong 10 năm tiếp theo. Tiếp đó Bộ trưởng Bộ Tài chính Vũ Văn Ninh đã phát biểu chúc mừng Hội nghị cũng như có những lời động viên, khích lệ những người hoạt động trong ngành phấn đấu hơn nữa vì sự phát triển của nghề nghiệp…Sau diễn văn chúc mừng của Bộ trưởng, Hội nghị cũng được nghe diễn văn chúc mừng của đại diện một số hội nghề nghiệp, trường đại học và các công ty kiểm toán tại Việt Nam…

Ông Vũ Văn Ninh - Bộ Trưởng BTC

trao tặng Huân chương Lao động

Hạng ba cho VACPA

Một phần quan trọng của Hội nghị là Lễ trao Huân chương, bằng khen cho các tập thể, cá nhân có nhiều thành tích và đóng góp cho sự phát triển của ngành KTĐL trong 20 năm qua. Nhân dịp này, Hội kiểm toán viên hành nghề Việt Nam đã vinh dự được Chủ tịch nước trao tặng Huân chương lao động Hạng Ba. Đồng thời, 3 tập thể và 12 cá nhân cũng vinh dự nhận Bằng khen của Thủ tướng Chính phủ; 5 tập thể và 28 cá nhân đã vinh dự nhận Bằng khen của Bộ trưởng Bộ Tài chính.

Trước khi kết thúc Hội nghị, Ông Bùi Văn Mai, Phó Chủ tịch thường trực kiêm Tổng Thư ký Hội kiểm toán viên hành nghề Việt Nam đã đọc danh sách 2 tập thể và 22 cá nhân được nhận bằng khen của Hội. Do thời gian có hạn, lễ trao bằng khen của Hội sẽ được diễn ra trong Đại hội đại biểu Nhiệm kỳ III của VACPA được tổ chức vào ngày hôm sau.

20 năm là khoảng thời gian không quá dài nhưng cũng đã chứng kiến những bước phát triển và nhảy vọt của nghề nghiệp KTĐL non trẻ của Việt Nam. Với những thành tích đã đạt được và những tồn tại đã được nhìn nhận để có hướng khắc phục, hy vọng nghề nghiệp này sẽ phát triển mạnh mẽ hơn nữa trong 10, 20 năm tiếp theo và xa hơn nữa, đáp ứng có hiệu quả vai trò công cụ quản lý kinh tế trong nền kinh tế thị trường phát triển và hội nhập quốc tế sâu rộng của Việt Nam.

VTT-VACPA

THƯ CHÚC MỪNG CỦA PHÓ THỦ TƯỚNG THƯỜNG TRỰC CHÍNH PHỦ ÔNG NGUYỄN SINH HÙNG NHÂN DỊP LỄ TỔNG KẾT 20 NĂM KIỂM TOÁN ĐỘC LẬP



(Theo VACPA)

Thursday 26 May 2011

Điều chỉnh mức thu phí bán đấu giá đất

ộ Tài chính vừa dự kiến điều chỉnh mức thu phí bán đấu giá, phí tham gia đấu giá tài sản. Theo đó, tài sản bán được có giá trị từ 10 - 20 tỷ đồng phải nộp phí 27,5 triệu đồng cộng 0,15% của phần giá trị tài sản bán được vượt quá 10 tỷ đồng.
Phí bán đấu giá được tính bằng 5% giá trị tài sản bán được đối với tài sản có giá trị từ trên 1 triệu đồng đến 100 triệu đồng
Phí bán đấu giá được tính bằng 5% giá trị tài sản bán được đối với tài sản có giá trị từ trên 1 triệu đồng đến 100 triệu đồng. Tài sản bán được có giá trị từ trên 100 triệu đồng đến 1 tỷ đồng phải nộp phí bán đấu giá 5 triệu đồng cộng thêm 1,5% của phần giá trị tài sản bán được vượt quá 100 triệu đồng.
Mức phí 18,5 triệu đồng cộng 0,2% của phần giá trị tài sản bán được vượt quá 1 tỷ đồng được áp dụng đối với tài sản có giá trị từ trên 1 tỷ đồng đến 10 tỷ đồng. Đối với tài sản trị giá từ trên 20 tỷ đồng phí đấu giá là 37,5 triệu đồng cộng 0,1% của phần giá trị tài sản bán được vượt quá 20 tỷ đồng nhưng tổng số phí cho một cuộc bán đấu giá tối đa không vượt quá 300 triệu đồng.
Trong trường hợp bán đấu giá tài sản không thành thì tổ chức, cá nhân có tài sản thanh toán cho tổ chức bán đấu giá các chi phí thực tế, hợp lý (trừ trường hợp các bên có thoả thuận hoặc pháp luật có quy định khác).
Ngoài ra, Bộ Tài chính cũng dự kiến điều chỉnh mức thu phí tham gia đấu giá. Cụ thể, giá khởi điểm của tài sản bán đấu giá có giá trị từ 20 triệu đồng trở xuống mức phí tham gia đấu giá là 50.000 đồng; từ trên 20 triệu đồng đến 50 triệu đồng phải nộp phí là 100.000 đồng; từ trên 50 triệu đồng đến 100 triệu đồng là 150.000 đồng.
Tham gia đấu giá tài sản có giá khởi điểm từ trên 100 triệu đồng đến 500 triệu đồng, tổ chức, cá nhân phải nộp phí 200.000 đồng. Mức phí tham gia đấu giá cao nhất (500.000 đồng) áp dụng đối với tài sản có giá khởi điểm đem đấu giá trên 500 triệu đồng.
Theo quy định của Bộ Tài chính, tuỳ thuộc vào đặc điểm, điều kiện cụ thể của địa phương, HĐND cấp tỉnh quyết định cụ thể mức thu phí bán đấu giá và phí tham gia đấu giá áp dụng cho phù hợp đối với từng loại đối tượng nộp phí, từng mức giá trị của tài sản bán được, từng mức giá khởi điểm đấu giá của tài sản nhưng không vượt quá mức thu tối đa kể trên.

(Theo DDDN)

Monday 23 May 2011

Báo cáo kiểm toán: Nội dung nào không được ngoại trừ?

Xem hình

Mặc dù đến ngày 1/1/2012, Luật Kiểm toán độc lập (KTĐL) mới có hiệu lực, nhưng đã xuất hiện một số băn khoăn trong việc thi hành.

Chẳng hạn, theo điểm 2 Điều 48 của Luật, "Bộ Tài chính quy định nội dung không được ngoại trừ trong báo cáo kiểm toán phù hợp với chuẩn mực kiểm toán". Vậy Bộ Tài chính sẽ quy định nội dung này thế nào? Theo quy định của Luật, có thể suy đoán 2 khả năng:

Thứ nhất, Bộ Tài chính quy định nội dung không được ngoại trừ một cách tổng thể thông qua áp dụng các chuẩn mực kiểm toán có liên quan và các đối tượng chịu sự điều chỉnh chỉ cần áp dụng các chuẩn mực kiểm toán này (các chuẩn mực có liên quan đã được Bộ ban hành và hướng dẫn thực hiện) là có thể được coi là tuân thủ điểm 2 Điều 48 Luật KTĐL.

Thứ hai, Bộ Tài chính quy định chi tiết từng nội dung không được ngoại trừ trong một văn bản hướng dẫn Luật KTĐL và các đối tượng chịu sự điều tiết sẽ phải tuân thủ theo văn bản hướng dẫn này.

Trong trường hợp thứ nhất, việc áp dụng chuẩn mực kiểm toán để đưa ra ý kiến kiểm toán (trong đó có trường hợp sử dụng ý kiến ngoại trừ) đã được các kiểm toán viên (KTV) và công ty kiểm toán (CTKT) áp dụng từ nhiều năm và phù hợp với thông lệ quốc tế. Tuy nhiên, khả năng áp dụng cũng như tính tuân thủ chuẩn mực kiểm toán của một số KTV và CTKT còn chưa tốt, dẫn đến tình trạng sử dụng ý kiến ngoại trừ chưa phù hợp và làm cho báo cáo kiểm toán mất đi giá trị về mặt thông tin và tư vấn đối với người sử dụng.

Theo đánh giá chủ quan của người viết, có tình trạng sử dụng ý kiến ngoại trừ chưa phù hợp chủ yếu là do trình độ KTV chưa cao, chưa biết cách lựa chọn các thủ tục bổ sung để không đưa ra ý kiến ngoại trừ, hoặc do phí kiểm toán thấp không đủ để tiến hành các thủ tục bổ sung, hoặc do KTV thiếu trách nhiệm bỏ qua sai sót cho khách hàng.

Để khắc phục được vấn đề này, cần có sự phối hợp của nhiều bên như Bộ Tài chính, UBCK, Hội KTV hành nghề Việt Nam trong việc kiểm tra và xử lý chất lượng kiểm toán một cách thường xuyên. UBCK khi xét duyệt các CTKT đủ điều kiện kiểm toán cho các công ty niêm yết, công ty đại chúng cần có quy trình đánh giá kỹ lưỡng và cụ thể hơn, thay vì chỉ dựa vào bộ hồ sơ do các CTKT nộp lên như hiện nay.

Trong trường hợp thứ hai, Bộ Tài chính quy định chi tiết từng nội dung không được ngoại trừ trong ý kiến kiểm toán. Điều này sẽ hạn chế việc lạm dụng ý kiến ngoại trừ, nhưng áp dụng trong thực tiễn sẽ gặp nhiều khó khăn. Bởi lẽ, ngoài việc thực hiện các thủ tục kiểm toán thông thường, KTV hành nghề còn phải sử dụng một công cụ rất quan trọng là xét đoán nghề nghiệp để thu thập đủ bằng chứng kiểm toán thích hợp trước khi đưa ra ý kiến về bất kỳ một khoản mục nào của báo cáo tài chính. Điều đó cũng có nghĩa là bất cứ nội dung nào không có đủ bằng chứng kiểm toán đều có thể bị ngoại trừ.

Tuy nhiên, KTV hành nghề cần vận dụng kiến thức và kinh nghiệm của mình để thu thập đầy đủ bằng chứng kiểm toán và phải chịu trách nhiệm về những công việc mình đã làm và ý kiến kiểm toán đưa ra. Ví dụ, ý kiến kiểm toán về hàng tồn kho trong trường hợp CTKT được bổ nhiệm sau khi kết thúc năm tài chính. KTV không thể tham gia quan sát việc kiểm kê hàng tồn kho của đơn vị được kiểm toán, nhưng không được phép mặc nhiên đưa ra ý kiến ngoại trừ về tính hiện hữu của hàng tồn kho, mà sẽ phải dùng xét đoán của mình để quyết định liệu có nên thực hiện các thủ tục kiểm toán thay thế, chẳng hạn yêu cầu khách hàng thực hiện một cuộc kiểm kê bổ sung.

Ở đây, nếu cuộc kiểm kê bổ sung được thực hiện không xa sau ngày kết thúc năm tài chính và biến động của hàng tồn kho là không nhiều, thì các bằng chứng từ việc quan sát kiểm kê sau ngày kết thúc năm tài chính có thể đáng tin cậy. Do đó, không cần thiết phải sử dụng ý kiến ngoại trừ cho tính hiện hữu của hàng tồn kho. Ngược lại, nếu việc thực hiện các thủ tục kiểm toán thay thế là không hiệu quả (việc quan sát kiểm kê hàng tồn kho bổ sung được thực hiện quá xa sau ngày kết thúc năm tài chính và hàng tồn kho đã có nhiều biến động) trong việc thu thập được các bằng chứng kiểm toán phù hợp, thì KTV có thể áp dụng ý kiến ngoại trừ.

Ngay cả khi xác định cuộc kiểm kê bổ sung thế nào là không quá xa sau ngày kết thúc năm tài chính hay mức độ biến động của hàng tồn kho thế nào là nhiều cũng cần có những xét đoán nghề nghiệp của KTV đối với từng đơn vị được kiểm toán, chứ không thể chỉ dựa vào một con số chung cố định nào.

Phân tích trên cho thấy, việc quy định cụ thể từng khoản mục không được ngoại trừ có thể gặp nhiều khó khăn, mà cuối cùng vẫn không bao trùm hết được hết các vấn đề, vì thực tiễn của hoạt động kinh doanh cũng như hoạt động kế toán, tài chính luôn biến động và thay đổi.

Phạm Quốc Hưng - Phó tổng giám đốc Công ty TNHH Kiểm toán và tư vấn NEXIA ACPA

(Theo ĐTCK)

Kiểm toán Tập đoàn Bảo Việt và Vietcombank trong tuần này

Kiểm toán Nhà nước Việt Nam (KTNN) cho biết, bắt đầu từ ngày 25.5 cơ quan này sẽ tiến hành triển khai kiểm toán đối với Tập đoàn Bảo Việt và Ngân hàng TMCP Ngoại thương Việt Nam (Vietcombank).

Cũng trong tuần này, ngày 27.5, KTNN sẽ xét duyệt báo cáo kiểm toán của Ngân hàng Phát triển Việt Nam (VDB).

Trong năm nay, Kiểm toán Nhà nước sẽ tiến hành kiểm toán 27 tập đoàn, tổng công ty và ngân hàng thương mại
Trong năm nay, Kiểm toán Nhà nước sẽ tiến hành kiểm toán 27 tập đoàn, tổng công ty và ngân hàng thương mại

Từ đầu năm 2011, Tổng KTNN Vương Đình Huệ cho biết, trong năm nay cơ quan này sẽ tiến hành kiểm toán 27 tập đoàn kinh tế, tổng công ty và ngân hàng thương mại. Trong đó có Tập đoàn Công nghiệp Tàu thủy Việt Nam (Vinashin), Tập đoàn Điện lực Việt Nam (EVN), Tập đoàn Công nghiệp Than khoáng sản Việt Nam, Tổng công ty Hàng hải Việt Nam, Tập đoàn Phát triển Nhà và Đô thị Việt Nam HUD, Ngân hàng TMCP Ngoại thương Việt Nam, Ngân hàng TMCP Công thương Việt Nam…


(Theo Laodong)

Quy định thuế suất mới của Bộ Tài chính: "Trống đánh xuôi kèn thổi ngược"

Thông tư chỉ vài trang giấy nhưng có quá nhiều quy định khó thực thi. Hậu quả, tất cả các hồ sơ chuyển nhượng nhà đất trong dự án đều bị ngưng gần 2 tháng qua

Thông tư 12/2011/TT-BTC của Bộ Tài chính ký ngày 26-1-2011 quy định về thuế thu nhập cá nhân (TNCN) đối với hoạt động chuyển nhượng hợp đồng bán nhà ở hình thành trong tương lai. Thông tư chỉ vài trang giấy nhưng có quá nhiều quy định khó thực thi. Hậu quả, tất cả các hồ sơ chuyển nhượng nhà đất trong dự án đều bị ngưng gần 2 tháng qua, người dân chịu thiệt, các bên giao dịch nằm trong thế tiến thoái lưỡng nan, có nguy cơ dẫn đến tranh chấp..

Bán hơn 200m² đất, đóng thuế... 2,5 tỷ đồng

Thông tư 12 quy định gần như chỉ cho áp dụng một mức thuế suất 25% trên lợi nhuận đối với hợp đồng góp vốn mua nền đất, nhà ở và giá xác định căn cứ vào giá trên sàn. Như vậy, nếu chuyển nhượng 237m² đất với giá bán 5 tỷ đồng, nhưng theo quy định cơ quan thuế phải làm việc với sàn giao dịch xác định lại giá đất nên giá xác định lên đến 10,6 tỷ đồng.

Trong khi giá mua vào không xác định được do tất cả các hợp đồng góp vốn đất như thế đều ký với chủ dự án ghi nhận bằng phụ lục hợp đồng về việc chuyển nhượng mà không ghi giá chuyển nhượng. Do đó, giá mua được xác định giá ban đầu của chủ dự án từ năm 2004 với giá chỉ có 750 triệu đồng. Theo Thông tư 12, lấy giá bán theo sàn giao dịch (10,6 tỷ đồng) trừ giá mua (chỉ 750 triệu đồng) rồi nhân với thuế suất 25% thì số thuế người bán phải nộp lên đến 2,48 tỷ đồng! Trong khi, chiếu theo khung giá của nhà nước thì lô đất này trị giá có 1,5 tỷ đồng.

Vì cách xác định thuế phi thực tế như thế nên không hợp đồng chuyển nhượng nào được thực hiện. Bởi Thông tư 12 không biết rằng tất cả hợp đồng góp vốn khi chuyển nhượng, chỉ có chủ đầu tư ký xác nhận việc chuyển nhượng cho người thứ 3 tiếp tục thực hiện hợp đồng (tiếp tục nộp tiền theo tiến độ cho chủ đầu tư dự án) chứ không ghi nhận giá mua, giá bán giữa các bên. Và như vậy, dù qua nhiều lần chuyển nhượng thì giá bán chỉ có thể căn cứ theo giá ban đầu mà chủ dự án đưa ra từ nhiều năm trước (và cũng không được trừ trượt giá mỗi năm hơn 10%). Do vậy, đến nay, tất cả nhà đất dự án đều bị ngưng giao dịch. Chỉ tính riêng quận 7, có đến 23 hồ sơ chuyển nhượng đã nhận một phần tiền, đến khi cơ quan thuế tính thuế, người dân không thể đóng nổi thuế nên giao dịch bị “gãy” giữa chừng, có nguy cơ dẫn đến tranh chấp.

Các quy định đều bất khả thi

Từ ngữ trong Thông tư 12 cũng mâu thuẫn với nghị định của Chính phủ trước đó. Cụ thể, Thông tư 12 quy định “hợp đồng góp vốn để có quyền mua nền nhà, căn hộ” là “hợp đồng mua bán nhà ở hình thành trong tương lai”. Trong khi đó, Nghị định 71/2010/NĐ-CP hướng dẫn thi hành luật nhà ở quy định hợp đồng góp vốn mua nền đất không phải là hợp đồng mua bán nhà ở hình thành trong tương lai. Mà việc chuyển nhượng hợp đồng góp vốn mua nền nhà chỉ được chủ đầu tư dự án xác nhận, còn cơ quan công chứng từ chối công chứng hợp đồng này vì nó không phải là hợp đồng mua bán nhà ở hình thành trong tương lai theo Nghị định 71.

Thông tư 12 cũng quy định nếu giá mua bán của các bên không đúng với giá thị trường thì cơ quan thuế tham khảo giá bằng biên bản làm việc với sàn giao dịch để ấn định giá tính thuế. Thế nhưng, cán bộ thuế lấy giá thị trường ở đâu để biết là giá các bên khai không đúng giá thị trường, khi xác định giá với sàn giao dịch trong lúc các dự án đó không còn bán trên sàn thì việc xác định giá là chủ quan. Bởi người dân muốn bán đất theo giá mà sàn xác định có được không?

Thực tế, nhiều người cần tiền có thể bán rẻ hơn, trong khi giao cho sàn thì biết khi nào mới bán được theo giá do sàn đưa ra. Thực tế, sau khi Chi cục Thuế quận 7 thử xác định giá tại sàn giao dịch thì giá sàn giao dịch xác định tăng gấp đôi so với giá các bên kê khai; gấp 7 - 8 lần so với khung giá nhà nước và gấp mười mấy lần giá mua vào trước đây (vì giá mua vào tính theo giá trong hợp đồng đầu tiên với chủ dự án). Vì thế, áp thuế 25% là không thực tế, không khả thi.

Rõ ràng, Bộ Tài chính loay hoay với thuế TNCN về đất đai, bởi từ khi Luật Thuế TNCN ra đời đến nay, không biết bao nhiêu thông tư quy định, sửa tới sửa lui về mức thuế suất. Lúc cho áp dụng song song 2 mức thuế suất 25% trên lợi nhuận và 2% trên giá trị hợp đồng; lúc buộc phải áp dụng thuế suất 25%, chỉ khi nào không xác định được giá mua, giá bán và chi phí liên quan thì mới được áp dụng thuế suất 2%; có lúc lại cho người dân được lựa chọn 25% hay 2% tùy thích và giờ thì áp dụng cứng ngắc 25% không có cơ sở thực thi. Dù người dân kêu ca, cơ quan thuế các cấp kiến nghị nhưng Bộ Tài chính vẫn chưa có động thái xử lý?

Theo Hàn Ni

Sài Gòn Giải Phóng

Quy định thuế suất mới của Bộ Tài chính: "Trống đánh xuôi kèn thổi ngược"

Thông tư chỉ vài trang giấy nhưng có quá nhiều quy định khó thực thi. Hậu quả, tất cả các hồ sơ chuyển nhượng nhà đất trong dự án đều bị ngưng gần 2 tháng qua

Thông tư 12/2011/TT-BTC của Bộ Tài chính ký ngày 26-1-2011 quy định về thuế thu nhập cá nhân (TNCN) đối với hoạt động chuyển nhượng hợp đồng bán nhà ở hình thành trong tương lai. Thông tư chỉ vài trang giấy nhưng có quá nhiều quy định khó thực thi. Hậu quả, tất cả các hồ sơ chuyển nhượng nhà đất trong dự án đều bị ngưng gần 2 tháng qua, người dân chịu thiệt, các bên giao dịch nằm trong thế tiến thoái lưỡng nan, có nguy cơ dẫn đến tranh chấp..

Bán hơn 200m² đất, đóng thuế... 2,5 tỷ đồng

Thông tư 12 quy định gần như chỉ cho áp dụng một mức thuế suất 25% trên lợi nhuận đối với hợp đồng góp vốn mua nền đất, nhà ở và giá xác định căn cứ vào giá trên sàn. Như vậy, nếu chuyển nhượng 237m² đất với giá bán 5 tỷ đồng, nhưng theo quy định cơ quan thuế phải làm việc với sàn giao dịch xác định lại giá đất nên giá xác định lên đến 10,6 tỷ đồng.

Trong khi giá mua vào không xác định được do tất cả các hợp đồng góp vốn đất như thế đều ký với chủ dự án ghi nhận bằng phụ lục hợp đồng về việc chuyển nhượng mà không ghi giá chuyển nhượng. Do đó, giá mua được xác định giá ban đầu của chủ dự án từ năm 2004 với giá chỉ có 750 triệu đồng. Theo Thông tư 12, lấy giá bán theo sàn giao dịch (10,6 tỷ đồng) trừ giá mua (chỉ 750 triệu đồng) rồi nhân với thuế suất 25% thì số thuế người bán phải nộp lên đến 2,48 tỷ đồng! Trong khi, chiếu theo khung giá của nhà nước thì lô đất này trị giá có 1,5 tỷ đồng.

Vì cách xác định thuế phi thực tế như thế nên không hợp đồng chuyển nhượng nào được thực hiện. Bởi Thông tư 12 không biết rằng tất cả hợp đồng góp vốn khi chuyển nhượng, chỉ có chủ đầu tư ký xác nhận việc chuyển nhượng cho người thứ 3 tiếp tục thực hiện hợp đồng (tiếp tục nộp tiền theo tiến độ cho chủ đầu tư dự án) chứ không ghi nhận giá mua, giá bán giữa các bên. Và như vậy, dù qua nhiều lần chuyển nhượng thì giá bán chỉ có thể căn cứ theo giá ban đầu mà chủ dự án đưa ra từ nhiều năm trước (và cũng không được trừ trượt giá mỗi năm hơn 10%). Do vậy, đến nay, tất cả nhà đất dự án đều bị ngưng giao dịch. Chỉ tính riêng quận 7, có đến 23 hồ sơ chuyển nhượng đã nhận một phần tiền, đến khi cơ quan thuế tính thuế, người dân không thể đóng nổi thuế nên giao dịch bị “gãy” giữa chừng, có nguy cơ dẫn đến tranh chấp.

Các quy định đều bất khả thi

Từ ngữ trong Thông tư 12 cũng mâu thuẫn với nghị định của Chính phủ trước đó. Cụ thể, Thông tư 12 quy định “hợp đồng góp vốn để có quyền mua nền nhà, căn hộ” là “hợp đồng mua bán nhà ở hình thành trong tương lai”. Trong khi đó, Nghị định 71/2010/NĐ-CP hướng dẫn thi hành luật nhà ở quy định hợp đồng góp vốn mua nền đất không phải là hợp đồng mua bán nhà ở hình thành trong tương lai. Mà việc chuyển nhượng hợp đồng góp vốn mua nền nhà chỉ được chủ đầu tư dự án xác nhận, còn cơ quan công chứng từ chối công chứng hợp đồng này vì nó không phải là hợp đồng mua bán nhà ở hình thành trong tương lai theo Nghị định 71.

Thông tư 12 cũng quy định nếu giá mua bán của các bên không đúng với giá thị trường thì cơ quan thuế tham khảo giá bằng biên bản làm việc với sàn giao dịch để ấn định giá tính thuế. Thế nhưng, cán bộ thuế lấy giá thị trường ở đâu để biết là giá các bên khai không đúng giá thị trường, khi xác định giá với sàn giao dịch trong lúc các dự án đó không còn bán trên sàn thì việc xác định giá là chủ quan. Bởi người dân muốn bán đất theo giá mà sàn xác định có được không?

Thực tế, nhiều người cần tiền có thể bán rẻ hơn, trong khi giao cho sàn thì biết khi nào mới bán được theo giá do sàn đưa ra. Thực tế, sau khi Chi cục Thuế quận 7 thử xác định giá tại sàn giao dịch thì giá sàn giao dịch xác định tăng gấp đôi so với giá các bên kê khai; gấp 7 - 8 lần so với khung giá nhà nước và gấp mười mấy lần giá mua vào trước đây (vì giá mua vào tính theo giá trong hợp đồng đầu tiên với chủ dự án). Vì thế, áp thuế 25% là không thực tế, không khả thi.

Rõ ràng, Bộ Tài chính loay hoay với thuế TNCN về đất đai, bởi từ khi Luật Thuế TNCN ra đời đến nay, không biết bao nhiêu thông tư quy định, sửa tới sửa lui về mức thuế suất. Lúc cho áp dụng song song 2 mức thuế suất 25% trên lợi nhuận và 2% trên giá trị hợp đồng; lúc buộc phải áp dụng thuế suất 25%, chỉ khi nào không xác định được giá mua, giá bán và chi phí liên quan thì mới được áp dụng thuế suất 2%; có lúc lại cho người dân được lựa chọn 25% hay 2% tùy thích và giờ thì áp dụng cứng ngắc 25% không có cơ sở thực thi. Dù người dân kêu ca, cơ quan thuế các cấp kiến nghị nhưng Bộ Tài chính vẫn chưa có động thái xử lý?

Theo Hàn Ni

Sài Gòn Giải Phóng

Popular Posts