Friday 3 May 2013

HÃNG THÀNH VIÊN – “NETWORK” (MẠNG LƯỚI) HAY “ASSOCIATION” (HIỆP HỘI)



BBT: Hiện nay tại Việt Nam có 28 doanh nghiệp kiểm toán là thành viên của các hãng kiểm toán và tư vấn quốc tế với các hình thức thành viên khác nhau. Hiện có 2 hình thức hãng thành viên quốc tế phổ biến nhất là “network” (mạng lưới) và “association” (hiệp hội). Vậy có sự phân biệt nào giữa mô hình “network” và “association” và có những lợi ích gì cho doanh nghiệp khi là thành viên của “network” hay “association”? Để giúp bạn đọc hiểu hơn về vấn đề này, Ban biên tập xin trích đăng bài viết của tác giả David Adams trên tập san ICAEW số tháng 2/2013.


V
ới công việc kinh doanh đang ngày càng được toàn cầu hóa, ngay cả những doanh nghiệp nhỏ nhất giờ đây cũng tham gia giao dịch quốc tế ở một mức độ nào đó. Ngành nghề kinh doanh dịch vụ kế toán, kiểm toán không phải là ngoại lệ. Doanh nghiệp kiểm toán thuộc mọi quy mô đều có ít nhất một số khách hàng quốc tế, do vậy không ngạc nhiên khi các hãng kiểm toán quốc tế ngày càng phát triển trong những năm gần đây. Không chỉ cho phép các doanh nghiệp kiểm toán đáp ứng yêu cầu của các khách hàng hiện tại và tương lai, là thành viên hãng quốc tế còn giúp thu hút nguồn nhân lực và chuẩn hóa các quy trình kinh doanh.
Một số hãng quốc tế đã phát triển thành những “network” có thương hiệu, trong khi một số khác vẫn duy trì cấu trúc “association”. Nhìn chung, “network” càng lớn thì quy mô trung bình của hãng thành viên càng lớn và đối tượng khách hàng càng phức tạp. Tuy nhiên, sự khái quát này lại ẩn chứa một thực tế phức tạp hơn. Có những định nghĩa được các tổ chức xây dựng chuẩn mực kế toán sử dụng để phân biệt “network” và “association”, nhưng những định nghĩa đó không được chấp nhận rộng rãi. Ranh giới giữa “network” và “association” có thể mờ nhạt, và ở một mức độ nào đó Big 4 được coi là những “network” có phạm vi hoạt động toàn cầu.
Theo Ông Graeme Gordon, Giám đốc điều hành của Praxity, được thành lập năm 2007 và hiện có 66 doanh nghiệp thành viên trên khắp thế giới: “Chúng tôi vẫn là “association”. Chúng tôi giữ nguyên cấu trúc này vì tất cả các thành viên của chúng tôi vẫn được hưởng lợi thế thương hiệu tại các thị trường của riêng họ, và do đó không có nghĩa lý gì chúng tôi phải chuyển đổi sang cấu trúc “network”.
Ông Rakesh Shaunak là Chủ tịch tập đoàn MHA, một “association” gồm 9 doanh nghiệp kiểm toán và tư vấn hoạt động khắp nước Anh. MHA lại là thành viên của Morison International, một “association” có 90 doanh nghiệp thành viên tại 65 quốc gia. Theo Ông Shaunak, chìa khóa thành công của các “association” được thiết lập thông qua việc đánh giá chất lượng với trách nhiệm cao nhất, và nền tảng chung giữa các doanh nghiệp thành viên. Những yếu tố này đảm bảo khách hàng được cung cấp các dịch vụ đáp ứng kỳ vọng của họ từ các doanh nghiệp thành viên.
Theo Ông Donald Watkin, Giám đốc điều hành của MSI Global Alliance, cũng là một “association”, không phải là “network”, thì các thành viên của “association” có xu hướng làm việc cho các khách hàng nhỏ và vừa và đảm bảo khách hàng được phục vụ tốt hơn trong một cấu trúc “association” linh hoạt hơn.
Các cuộc tranh luận vẫn tiếp diễn trong giới kiểm toán và giữa các cơ quan quản lý nhà nước về sự khác nhau giữa “network” và “association”, xoay quanh các vấn đề như có tiêu chuẩn chất lượng toàn cầu, nhãn hiệu và quản lý. Một số hãng tự tuyên bố là “network”, một số khác lại cho rằng họ hài lòng với mô hình “association” của mình và có thể để các vấn đề về kiểm soát chất lượng cho các cơ quan quản lý nhà nước địa phương thực hiện.
Tuy nhiên, Bà Jean Stephens, CEO của mạng lưới toàn cầu RSM International cho rằng định nghĩa của Tổ chức chuẩn mực báo cáo tài chính quốc tế (IFRS Foundation) và Ủy ban chuẩn mực kế toán quốc tế (IASB) đủ rõ để loại bỏ sự mập mờ. RSM là một “network” có thương hiệu hoạt động tại 94 quốc gia nhưng các doanh nghiệp thành viên vẫn độc lập và tự chịu trách nhiệm pháp lý. RSM cũng làm việc với các doanh nghiệp liên kết (correspondent firms) – là các doanh nghiệp không phải là thành viên đồng ý cung cấp dịch vụ cho các khách hàng tại những nơi không có doanh nghiệp mạng lưới nào.
Bà Stephens cho rằng ngay đến các doanh nghiệp kiểm toán cũng không phân biệt được rõ ràng giữa “network” và “association”, nói gì đến khách hàng. Theo Bà, khía cạnh quan trọng nhất của một “network” là sự liên kết một phần nền tảng khách hàng của các doanh nghiệp thành viên. “Network” thường không có sự liên kết về mặt tài chính mà liên kết bằng cách cùng nhau phục vụ ngày càng nhiều khác hàng. Để làm được điều đó, quan trọng là phải tin tưởng lẫn nhau, và vì thế rất nhiều thời gian được dành cho việc gặp mặt và tìm hiểu lẫn nhau, tạo cơ sở xây dựng mối quan hệ và niềm tin.
Còn theo Ông Clive Stevens, chủ phần hùn quản lý của Reeves, đồng thời là chủ tịch của Kreston International, được cho là mạng lưới kiểm toán lớn thứ 13 trên toàn cầu, thì động lực để trở thành “network”, thay vì “association” xuất phát từ mong muốn của các doanh nghiệp thành viên được sử dụng danh tiếng của mạng lưới để tìm kiếm các đối tác kinh doanh mới. Đó là lý do các “association” bắt đầu trở thành “network”, chia sẻ các chuẩn mực, hệ thống kiểm soát chất lượng và kiểm tra tính độc lập để có thể thực hiện các công việc mang tính quốc tế một cách chuẩn hóa hơn. Ông nói, “Chúng tôi chuyển từ “association” thành “network” và thiết lập các hệ thống kiểm soát chất lượng. Điều đó có nghĩa là các doanh nghiệp thành viên biết được rằng các hệ thống được tổ chức nhất quán trên khắp thế giới. Đôi khi trong một “association” không có những sự kiểm tra đó và bạn không biết chất lượng của những người trong cùng một hiệp hội với bạn. Điều đó không phải là vấn đề với chúng tôi vì chúng tôi biết có một sân chơi ngang bằng cho các thành viên của mình”. Cũng theo Ông Stevens, sự phức tạp còn có thể phát sinh từ quy mô khác nhau của các doanh nghiệp thành viên. Có thể có một số doanh nghiệp kiểm toán khá nhỏ cung cấp dịch vụ cho một số công ty đại chúng tại Nepal, nhưng việc đó lại không xảy ra tại Anh. Nhưng quan trọng là phải thu hút được những doanh nghiệp thành viên tốt nhất trong một nền kinh tế nhất định.
Một số doanh nghiệp kiểm toán nhỏ tại Anh thấy khó trở thành thành viên của một hãng quốc tế lớn. Nhưng theo Ông Kevin Arnold, CEO của Nexia International, nếu không có một hãng phù hợp để đáp ứng nhu cầu của các doanh nghiệp kiểm toán nhỏ, họ có thể tự hình thành nên hãng của mình, cũng giống như trường hợp một số doanh nghiệp kiểm toán hiện là thành viên của Nexia đã làm trước đây. Khó khăn là doanh nghiệp càng nhỏ thì càng khó có thể đạt được cấu trúc quốc tế.
Có nhiều nguyên nhân cho việc các hãng quốc tế muốn tuyển các thành viên mới, ví dụ do nhu cầu thị trường, do thiếu dịch vụ trong các lĩnh vực nhất định như tài chính doanh nghiệp hay tư vấn quản lý, hay do sự tác động của các yếu tố bên ngoài như thành viên rút khỏi hãng hay các vụ mua bán, sáp nhập…Mặc dù cả “network” và “association” cho rằng cấu trúc của họ giúp họ thích ứng với những sự thay đổi về quản lý nhà nước hay sự thiếu nhất quán của môi trường quốc tế, một số thay đổi về quản lý nhà nước, đáng chú ý là những cải cách về kiểm toán sắp tới tại Châu Âu cũng sẽ ảnh hưởng đến họ và các thành viên của họ.
Một số doanh nghiệp thành viên trong mạng lưới cũng có thể hợp tác với nhau để trở thành các tổ chức lớn và phức tạp hơn mà nếu hoạt động độc lập thì không đáp ứng được một số yêu cầu. Theo Bà Stephens, hiện RSM International đã đạt đến giai đoạn này trong đó các doanh nghiệp thành viên làm việc với nhau để phục vụ nhu cầu của các công ty đa quốc gia hoạt động tại 40 hay 50 quốc gia.
Sự khác biệt về văn hóa giữa các quốc gia cũng có thể là rào cản cho sự phát triển của các hãng quốc tế. Thậm chí nguy hiểm hơn là khi một doanh nghiệp thành viên chưa sẵn sàng áp dụng các chuẩn mực kế toán, kiểm toán quốc tế. Đôi khi một số doanh nghiệp chỉ vừa bắt đầu tiếp cận với các chuẩn mực quốc tế, vì thế nhân viên của họ chưa nhận được sự đào tạo cần thiết. Ví dụ như tại Châu Phi, nhiều tổ chức nghề nghiệp chỉ đang bắt đầu phát triển.
Tuy nhiên phần lớn đều cho rằng rào cản văn hóa có thể được vượt qua bằng sự tăng cường trao đổi thông tin trong mạng lưới, xây dựng các mối quan hệ thực sự, trực tiếp gặp gỡ trao đổi chứ không chỉ đơn thuần là trao đổi qua điện thoại. Và một lợi ích khác của việc là thành viên của một mạng lưới mạnh, chất lượng cao là nhận được sự hỗ trợ và cố vấn từ những thành viên khác đã từng trải qua các khó khăn tương tự.
Dù sao thì sự tồn tại của các “network” và “association” quốc tế đang trở nên ngày càng hữu ích cho các tổ chức thuộc mọi quy mô đang tìm kiếm đối tác là các doanh nghiệp kiểm toán và hữu ích cho chính các doanh nghiệp kiểm toán.  Xu hướng các doanh nghiệp kiểm toán thuộc mọi hình thức và quy mô tạo lập mối quan hệ với các đối tác khắp thế giới chắc chắn sẽ còn trở nên phổ biến hơn trong ngành nghề này trong những năm tiếp theo, khi mà khách hàng cũng ngày càng mở rộng hoạt động ra quy mô quốc tế.
(VTT - VACPA)

No comments:

Post a Comment

Popular Posts