Mặc   dù báo cáo lưu chuyển tiền tệ có tác dụng quan trọng trong việc  phân   tích, đánh giá, dự báo khả năng tạo ra tiền, khả năng đầu tư, khả  năng   thanh toán,… nhằm giúp các nhà quản lý, các nhà đầu tư và những  ai có   nhu cầu sử dụng thông tin có những hiểu biết nhất định đối với  hoạt động   của doanh nghiệp nhưng nhận thức về tầm quan trọng cũng như  lượng thông   tin được chuyển tải từ các báo cáo này vẫn còn thực sự  chưa rõ ràng   thậm chí còn rất mơ hồ đối với nhiều người, ngay cả với  những người làm   công tác kế toán. 
 
  Bài viết này nhằm giải quyết một trong những thách thức đối với người    đọc và người lập báo cáo lưu chuyển tiền tệ, đó là việc nhận diện các    chỉ tiêu và phương pháp lập các chỉ tiêu của báo cáo lưu chuyển tiền  tệ   theo quy định của chế độ kế toán áp dụng cho các doanh nghiệp Việt  Nam.
 
  Như chúng ta đều biết, để lập báo cáo lưu chuyển tiền tệ thì doanh    nghiệp có thể lập theo một hoặc cả hai phương pháp: phương pháp trực    tiếp và phương pháp gián tiếp. Tương ứng với mỗi phương pháp có mẫu báo    cáo riêng, nhưng mẫu báo cáo của hai phương pháp chỉ khác nhau ở phần    lưu chuyển tiền từ hoạt động kinh doanh.
 
  Sau đây lần lượt đi vào tìm hiểu báo cáo lưu chuyển tiền tệ theo từng phương pháp.
 
  - Theo phương pháp trực tiếp: Đặc điểm của phương pháp này là các chỉ    tiêu được xác lập theo các dòng tiền vào hoặc ra liên quan trực tiếp  đến   các nghiệp vụ chủ yếu, thường xuyên phát sinh trong các loại hoạt  động   của doanh nghiệp. Tần số phát sinh và độ lớn của loại nghiệp vụ  kinh tế   ảnh hưởng trực tiếp đến lưu chuyển tiền trong kỳ kế toán của  doanh   nghiệp.
 
  + Đối với hoạt động kinh doanh thì dòng tiền phát sinh chủ yếu liên  quan   đến hoạt động bán hàng, cung cấp dịch vụ và việc thanh toán các  khoản   nợ phải trả liên quan đến hoạt động sản xuất kinh doanh. Do vậy  các chỉ   tiêu thuộc lưu chuyển tiền từ hoạt động kinh doanh thường bao  gồm: tiền   thu từ bán hàng, cung cấp dịch vụ và doanh thu khác, tiền đã  trả nợ cho   người cung cấp hàng hóa, dịch vụ, tiền trả cho người lao  động, tiền đã   nộp thuế….
  
   + Đối với hoạt động đầu tư thì dòng tiền phát sinh chủ yếu liên quan  đến   việc mua sắm, thanh lý, nhượng bán TSCĐ; xây dựng cơ bản, hoạt  động cho   vay, mua bán các công cụ nợ của đơn vị khác, hoạt động đầu tư  vào các   đơn vị khác. Do vậy, các chỉ tiêu thuộc lưu chuyển tiền từ  hoạt động đầu   tư thường bao gồm: thu về thanh lý, nhượng bán TSCĐ, thu  nợ cho vay,   thu hồi các khoản vốn đầu tư vào đơn vị khác, chi mua sắm  TSCĐ, xây dựng   cơ bản, chi cho vay, chi đầu tư vào các đơn vị khác.
  
   + Đối với hoạt động tài chính thì dòng tiền phát sinh chủ yếu liên  quan   đến các nghiệp vụ nhận vốn, rút vốn từ các chủ sỡ hữu và các  nghiệp vụ   đi vay, trả nợ vay. Do vậy các chỉ tiêu thuộc lưu chuyển  tiền từ hoạt   động tài chính thường bao gồm: tiền thu do chủ sở hữu góp  vốn, tiền chi   trả vốn góp cho chủ sở hữu, tiền vay nhận được, tiền  trả nợ vay…
 
  Ngoài ra nếu doanh nghiệp có sử dụng ngoại tệ trong giao dịch thì  khoản   chênh lệch tỷ giá hối đoái do đánh giá lại số dư cuối kỳ của  tiền và   tương tiền bằng ngoại tệ khi lập báo cáo lưu chuyển tiền tệ  cũng là một   chỉ tiêu nằm trong báo cáo lưu chuyển tiền tệ của doanh  nghiệp. Có thể   mô tả dòng tiền vào, ra từ các hoạt động khác nhau qua  sơ đồ tài khoản   tổng quát như sau:
 
  Qua sơ đồ trên có thể thấy rằng dòng tiền vào hoặc ra đồng thời liên    quan đến cả 3 hoạt động: hoạt động kinh doanh, hoạt động đầu tư, hoạt    động tài chính. Nên để phân tích dòng tiền vào, ra gắn với từng hoạt    động cần thiết phải phân loại nội dung của từng khoản thu, chi theo từng    loại hoạt động. Đây chính là đặc điểm của phương pháp lập báo cáo  theo   phương pháp trực tiếp mà chúng ta đang đề cập. Theo chúng tôi, để  thuận   lợi và dễ dàng khi lập báo cáo lưu chuyển tiền tệ theo phương  pháp trực   tiếp, cần phân loại nội dung các dòng tiền vào, ra theo các  bước:
 
  Bước 1: Phân loại dòng tiền vào, ra gắn với các nhóm tài khoản theo sơ đồ trên. 
   
   Bước 2: Từ Bước 1 xác định dòng tiền vào, ra liên quan đến hoạt động  tài   chính – Đây là hoạt động có tần suất về nghiệp vụ liên quan đến  tiền   không nhiều và rất dễ nhận diện. 
   
   Bước 3: Nhận diện và xác định dòng tiền vào, ra liên quan đến hoạt  động   đầu tư – Các nghiệp vụ liên quan đến tiền của hoạt động đầu tư  cũng có   tần suất thấp, dễ nhận diện do tính đặc thù của nó. 
   
   Bước 4: Sau khi loại trừ dòng tiền vào ra của 2 hoạt động nêu trên, sẽ    xác định nhanh chóng dòng tiền vào, ra của hoạt động kinh doanh.
 
  Một vấn đề cần lưu ý đối với các doanh nghiệp nhỏ có khối lượng nghiệp    vụ liên quan đến tiền phát sinh không nhiều thì dựa vào cách xác định    như trên để thực hiện một lần vào cuối tháng; Đối với những doanh  nghiệp   lớn có khối lượng nghiệp vụ liên quan đến tiền phát sinh nhiều  thì định   kỳ 10 ngày nên dựa vào cách xác định như trên để thực hiện  một lần, sau   đó đến cuối tháng sẽ cộng dồn để xác định lưu chuyển tiền  cho tháng   (quý, năm).
 
  - Theo phương pháp gián tiếp: báo cáo lưu chuyển tiền tệ theo phương    pháp gián tiếp theo quy định hiện nay chỉ thực sự gián tiếp ở phần lưu    chuyển tiền từ hoạt động kinh doanh, còn 2 phần, lưu chuyển tiền từ  hoạt   động đầu tư và lưu chuyển tiền từ hoạt động tài chính được xác  định   theo phương pháp trực tiếp – Việc xác lập như vậy cũng tỏ ra phù  hợp bởi   mục tiêu của phương pháp này là xác lập mối liên hệ giữa lợi  nhuận với   lưu chuyển tiền để giúp người nhận thông tin thấy rằng không  phải doanh   nghiệp có lãi là có tiền nhiều, doanh nghiệp bị lỗ thì có  tiền ít hoặc   không có tiền. Vấn đề là tiền nằm ở đâu, ở đâu ra và dùng  cho mục đích   gì, mà đã đặt trong mối liên hệ với lợi nhuận thì hầu  hết lợi nhuận lại   được tạo ra từ hoạt động kinh doanh.
 
  Các chỉ tiêu thuộc lưu chuyển tiền từ hoạt động kinh doanh theo phương    pháp gián tiếp có thể nhận diện dễ dàng qua công thức sau:
 
  Lợi nhuận trước thuế = Doanh thu - Chi phí tạo ra doanh thu
 
  = (Tiền + Nợ phải thu) - (Tiền + Hàng tồn kho + Chi phí trả trước phân    bổ + Nợ phải trả + Khấu hao + Dự phòng + Chi phí lãi vay).
 
  = Tiền (lưu chuyển) + Nợ phải thu – Hàng tồn kho – Chi phí trả trước    phân bổ - Nợ phải trả – Khấu hao – Dự phòng – Chi phí lãi vay.
 
  ® Lưu chuyển tiền = Lợi nhuận trước thuế + Khấu hao + Dự phòng + Chí  phí   lãi vay + Hàng tồn kho – Nợ phải thu + Nợ phải trả + Chi phí trả  trước   phân bổ.
 
  Qua công thức này thấy rằng, lưu chuyển tiền từ hoạt động kinh doanh  nếu   được xác định bắt đầu từ lợi nhuận trước thuế thì các chỉ tiêu  điều   chỉnh bao gồm: Khấu hao (điều chỉnh tăng), Dự phòng (điều chỉnh  tăng),   Chi phí lãi vay (điều chỉnh tăng), con các chỉ tiêu: Hàng tồn  kho, Nợ   phải thu, Nợ phải trả và Chi phí trả trước thì việc điều chỉnh  tăng,   giảm phụ thuộc vào số dư cuối kỳ và số dư đầu kỳ của các tài  khoản nằm   trong các chỉ tiêu này:
 
  + Đối với hàng tồn kho:
 
  ° Nếu SDCK  SDĐK tức là SDCK – SDĐK > 0: Điều chỉnh giảm (chứng tỏ có một bộphận tiền được chuyển thành hàng tồn kho).
 
  ° Nếu SDCK SDĐK tức là SDCK – SDĐK < 0: Điều chỉnh tăng (chứng tỏ có một bộphận hàng tồn kho được chuyển thành tiền).
 
  + Đối với Nợ phải thu:
 
  ° Nếu SDCK  SDĐK tức là SDCK – SDĐK > 0: Điều chỉnh giảm (chứng tỏ có một bộphận tiền được chuyển thành nợ phải thu).
 
  ° Nếu SDCK SDĐK tức là SDCK – SDĐK < 0: Điều chỉnh tăng (chứng tỏ có một bộphận nợ phải thu được chuyển thành tiền).
 
  + Đối với Chi phí trả trước:
 
  ° Nếu SDCK  SDĐK tức là SDCK – SDĐK > 0: Điều chỉnh giảm (chứng tỏ  có một bộ phận tiền được chuyển thành chi phí trả trước).
 
  ° Nếu SDCK SDĐK tức là SDCK – SDĐK < 0: Điều chỉnh tăng (chứng tỏ  có   một bộ phận chi phí trả trước đã chuyển hóa thành tiền).
 
  + Đối với Nợ phải trả:
 
  °Nếu SDCK  SDĐK tức là SDCK – SDĐK > 0: Điều chỉnh tăng (chứng tỏ có một bộphận nợ phải trả được chuyển thành tiền).
 
  ° Nếu SDCK SDĐK tức là SDCK – SDĐK < 0: Điều chỉnh giảm (chứng tỏ có một bộphận tiền được dùng để thanh toán nợ phải trả).
 
  Qua lý giải trên có thể thấy rằng, lưu chuyển tiền nghịch biến với sự    biến động của hàng tồn kho, nợ phải thu, chi phí trả trước và đồng  biến   với sự biến động của nợ phải trả.
 
  Ngoài ra do chỉ tiêu lợi nhuận trước thuế bao gồm cả lợi nhuận của  hoạt   động đầu tư và lãi, lỗ chênh lệch tỷ giá hối đoái chưa thực hiện  nên các   chỉ tiêu này cũng được dùng để điều chỉnh khi xác định lưu  chuyển tiền   từ hoạt động kinh doanh theo nguyên tắc nếu lãi thì điều  chỉnh giảm,   ngược lại lỗ thì điều chỉnh tăng. Đồng thời lưu chuyển  tiền từ hoạt động   kinh doanh còn liên quan đến một số nghiệp vụ khác  không ảnh hưởng đến   sự biến động của lợi nhuận trong mối quan hệ với  lưu chuyền tiền nên cần   được xác định thành các chỉ tiêu thu, chi khác  nằm trong lưu chuyển   tiền từ hoạt động kinh doanh.
 
  Từ việc nhận diện các chỉ tiêu và lý giải cơ sở xác định từng chỉ tiêu    như nói trên cho thấy rằng việc hiểu và lập báo cáo lưu chuyển tiền  tệ   thật ra không quá khó như nhiều người lầm tưởng, thậm chí có thể  nói là   khá đơn giản. Hơn nữa do hai phương pháp trực tiếp và gián tiếp  chỉ khác   nhau ở phần lưu chuyển tiền từ hoạt động kinh doanh nên nếu  doanh   nghiệp cùng một lúc lập theo cả hai phương pháp thì việc xác  định lưu   chuyển tiền từ hoạt động kinh doanh càng có điều kiện để đối  chiếu, tạo   ra được cân đối đúng đắn.
 
  Vấn đề cần được đặt ra hiện nay là tự thân báo cáo lưu chuyển tiền tệ    cũng như sự kết hợp báo cáo lưu chuyển tiền tệ với các báo cáo tài  chính   khác sẽ cung cấp cho người nhận thông tin các chỉ tiêu phân tích  gì để   nó có thể chứng tỏ và phát huy được tính hữu dụng của mình  trong thực   tiễn quản lý hoạt động sản xuất kinh doanh. Chúng tôi sẽ  nghiên cứu và   đề cập vấn đề này trong các số báo tiếp theo.
 (Theo Tạp chí KTP)
Cập nhật liên tục các thông tin kinh tế, tài chính, chứng khoán, giá vàng, cổ phiếu, xăng dầu, bất động sản, dự án đầu tư, quy hoạch...trong nước và thế giới.
Subscribe to:
Post Comments (Atom)
Popular Posts
- 
Ngày 4 tháng 10 vừa qua, Bộ Tài chính ban hành Thông tư số 138/2011/TT-BTC sửa đổi Quyết định 48 chế độ kế toán doanh nghiệ...
 - 
BỘ TÀI CHÍNH ------- CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM Độc lập - Tự do - Hạnh phúc --------------- Số: 154/2011/TT-BTC Hà Nội, n...
 - 
Mẫu A310: Tìm hiểu khách hàng và môi trường hoạt động Chuẩn mực áp dụng và người thực hiện Chuẩn mực kiểm toán “Xác định và đánh giá...
 - 
Kiểm toán phải ngăn ngừa được tham nhũng Đây là đề nghị của nhiều Đại biểu Quốc hội khi thảo luận tại nghị trường chiều 19.11 về dự luậ...
 - 
Mẫu A620: Trao đổi với BGĐ và các cá nhân có liên quan về gian lận Chuẩn mực và người thực hiện Chuẩn mực kiểm toán “Trách nhiệm của ...
 - 
Sau gần 3 năm làm việc tại Công ty Chứng khoán VNDirect, Nguyễn Hoàng Giang được hội đồng quản trị bổ nhiệm vào vị trí tổng giám đốc dù mới ...
 - 
Hỏi: Điều kiện hưởng bảo hiểm thất nghiệp như thế nào ? Trả lời: Người thất nghiệp được hưởng bảo hiểm thất nghiệp khi có đủ các đi...
 - 
Kiểm toán độc lập: Không thể kiểm xong rồi để đó Để nâng cao chất lượng kiểm toán độc lập, không chỉ cần bồi dưỡng nghiệp vụ, nâng c...
 - 
Vinashin, EVN, Tập đoàn Than khoáng sản VN cùng nhiều doanh nghiệp, tổng công ty lớn của Nhà nước đều nằm trong danh sách kiểm toán năm 20...
 
No comments:
Post a Comment